/tmp/ztnbs.jpg
Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!
Nội dung bài viết
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả và tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
– Dẫn dắt vấn đề: Hình ảnh tinh khôi, thuần khiết của phong cảnh và con người xứ Huế được mô tả thông qua hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
2. Thân bài
* Khổ 1:
– Câu thơ đầu:
– Ba câu thơ sau: khung cảnh và con người Vĩ Dạ
– Câu cuối của khổ thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” gợi ra nhiều suy nghĩ và liên tưởng.
* Khổ 2: Sự chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình – tâm trạng nặng trĩu.
3. Kết bài
Tóm lược lại ý chính của nghệ thuật và nội dung của hai khổ thơ đầu.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ kiệt tác làm nên tên tuổi của thi hào Hàn Mặc Tử. Đọc xong “Đây thôn Vĩ Dạ”, có người cứ mãi vương vấn cái “mờ nhân ảnh” của “khách đường xa”; có người cứ khắc khoải trong lòng câu hỏi “tình ai có đậm đà”, “có chở trăng về kịp tối nay”; hay lại có người mãi man mác buồn theo hình ảnh của “gió theo lối gió, mây đường mây”. Còn riêng tôi, gấp lại những dòng thơ, cứ ẩn hiện mãi hình ảnh làng quê xứ Huế thơ mộng, cùng bóng dáng “mặt chữ điền” sau lá trúc trong khổ thơ đầu:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”…
Nhiều nguồn tin cho rằng bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được hàn Mặc Tử viết tặng mối tình đơn phương với người con gái Huế mang tên Hoàng Thị Kim Cúc trong những tháng ngày một mình chống chọi với bệnh tật tại trại phong Tuy Hòa. Đó là những ngày tháng cuối đời của một người mắc bệnh hiểm nghèo, nhưng trong lòng vẫn luôn khắc khoải mong chờ, vẫn gửi hồn thi sĩ mơ về chốn thơ, dáng thơ một làng quê thơ. Đó là khi nhà thơ nhận được một tấm hình có cảnh thuyền và bến, kèm mấy lời hỏi thăm an ủi của người con gái phương xa thôn Vĩ ông thầm thương nhớ. Chẳng thế mà mở đầu bài thơ đã nhuộm màu nhớ nhung, khắc khoải:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Thoạt tiên, ta không biết đây là câu hỏi hay là một lời mời, mà cũng có thể là cả hai. Phải chăng cái hay của ý thơ ở đây chính là cái sự không rõ ràng, không thể phân định ấy? Câu thơ vừa như một câu hỏi, lại vừa như một lời trách móc. Vừa là một lời trách cứ nhẹ nhàng, nhưng cũng lại là một lời mời ý nhị, e ấp của bóng hồng xứ Huế. Nếu là một lời trách cứ, phải chăng đang trách tác giả sao lâu không về thăm thôn Vĩ? Trách người còn nhớ hay đã quên mà chẳng ghé thăm? Nếu nhìn nhận theo hướng này, thôn Vĩ trong câu thơ là một chốn cũ, có người xưa đang mong đợi một vị khách quay lại ghé thăm. Chỉ một câu “sao anh không về” mà nghe lòng nghẹn lại, như thể nó dồn nén tất cả sự chờ mong, khắc khoải đến mỏi mòn, tha thiết. “Anh” ở đây là ai? Là tác giả? Có một chút trách móc, có cả hờn giận vu vơ, nhưng lại có cả mời gọi đón chào. Phải chăng chất Huế đã ngấm vào cả nhịp thơ, khiến câu thơ bỗng trở nên cũng dịu dàng, uyển chuyển như thanh âm của người con gái Huế mang nét đẹp man mác buồn.
Còn nếu nhìn nhận câu thơ theo hướng của một lời mời, thì đây chính là lời mời vừa khéo léo, vừa ngọt ngào, tinh nghịch lại khó chối từ. Như thể nói rằng thôn Vĩ chúng em tươi đẹp lắm, nên thơ lắm, sao anh chẳng về thăm. Và trong những câu thơ sau, quả thực đã vẽ lên khung cảnh thôn Vĩ như một bức tranh thủy mặc, khiến người ta không thể chối từ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”…
Hình ảnh đầu tiên lọt vào mắt chính là màu của nắng. Nắng sớm trong trẻo rọi bóng những hàng cau đều tăm tắp. Hàng cau là một điểm đặc trưng của các thôn xóm Việt Nam, bởi nhân dân ta đã có tập tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Cây cau cũng gắn với rất nhiều câu chuyện về tình yêu đôi lứa mà ông cha ta đã kể từ ngàn đời nay. Không chỉ có thế, hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử còn có thêm cả ánh nắng mới lên buổi sớm, hay chính là biểu tượng của sức sống của niềm vui, của tuổi trẻ và tình yêu. Hình ảnh nắng lặp đi lặp lại hai lần trong một câu thơ càng làm cho khung cảnh trở nên rực rỡ, đầy sức sống, đến mức khiến ta tưởng tượng ra cả những giọt sương được nắng sớm rọi vào, ánh lên màu lấp lánh.
Nhìn ra xa hơn, đó là cả một khu vườn tươi tốt, xanh um. Vườn cây được chăm sóc kỹ lưỡng nên tươi tốt, um tùm đầy sức sống. Tác giả dùng chữ “mướt”, vừa để chỉ sự óng ả, tươi tốt của lá, vừa để chỉ màu xanh ngọc đẹp đẽ của lá. Ở đó ánh lên một sự khỏe mạnh, chứa chan đầy sức sống của cảnh vật cũng như con người nơi đây. Chỉ một từ mướt cũng đủ làm bật lên vẻ đẹp đến kỳ ảo của sắc xanh vườn tược thôn quê, xanh mướt nghĩa là xanh đều, xanh tươi, xanh đến lấp lánh như thể lá cây còn vấn ướt sương đêm, lại được nắng trong buổi sớm phản chiếu, hắt lên màu xanh như ngọc. Cái sự “xanh như ngọc” là một cách so sánh đầy tượng hình, nếu”mướt” không chỉ gợi màu sắc mà còn gọi cảm giác mềm mại, non xanh mơn mởn thì “xanh như ngọc” mang lại cho người đọc hình dung về cả sức sống lẫn ánh sáng thị giác như thể đang được đứng giữa khu vườn, được nhìn, chạm tay lẫn hít thở hương cây lá tinh khôi.
Khung cảnh thiên nhiên quá đẹp, quá thơ, dường như khiến ta phải thốt lên cảm thán “vườn ai mướt quá” mà lại xanh như ngọc. Nhưng “vườn ai” là vườn của ai? Cách nói lấp lửng, sử dụng đại từ phiếm chỉ độc đáo như thể đã báo trước sự xuất hiện của hình dáng con người. Và không sai, ở câu thơ cuối của khổ, giữa khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, đầy sức sống, đã có bóng dáng con người xuất hiện, khiến cho cảnh càng trở nên sinh động hơn.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Trúc là biểu trưng cho người quân tử, lại che ngang khuôn mặt chữ điền của ai đó, có thể là người khách đến thăm thôn Vĩ chăng? Có khi nào là hình ảnh của người nông dân nơi thôn quê thật thà, chất phác đang chăm nom khu vườn mướt xanh như ngọc? Hay là bóng hồng e ấp núp sau lá trúc che ngang của người con gái nơi thôn Vĩ? Phải chăng là người con gái đang đợi chờ?
“Mặt chữ điền” ở đây tuy không được chỉ rõ là hình ảnh của người nông dân, của vị khách đường xa hay là người con gái thôn quê xứ Huế, nhưng giữa cảnh sắc thiên nhiên như mộng, như thơ ấy lại được lồng ghép bóng dáng của con người thật càng trở nên sinh động. Thật là hai hình ảnh thật đẹp, hài hòa, làm cho khung cảnh thêm vài phần thi vị nhưng cũng lại thật gần gũi, mộc mạc đúng chất quê.
Có thể nói “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ viết về tình yêu, nhưng không vì thế mà các chi tiết tả cảnh trở nên mờ nhạt. Ngược lại, trong cảnh có tình, trong tình có cảnh, hòa quyện vào nhau, cảnh đẹp tình buồn, cảnh buồn tình khắc khoải. Cũng giống như tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử, đẹp thì có đẹp nhưng lại quá buồn. Bốn câu thơ đầu khắc họa một bức tranh làng quê mộc mạc nhưng thi vị, nét buồn tuy chưa chấm phá quá nhiều, nhưng không hiểu sao lời trách móc, mời gọi lẫn hình ảnh đôi mắt ẩn khuất sau lá trúc che ngang mặt chữ điền cứ làm ta bâng khuâng, man mác!
Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “ Đây thôn vĩ dạ”, bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ.
Không giống với các bài thơ khác,mở đầu bài thơ “ đây thôn Vĩ Dạ” lại không phải là một câu miêu tả hay câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ:” Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc, viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi gợi ra những nỗi nhớ về một miền thơ mộng hữu tình
Câu đầu của bài thơ, mở đầu một câu hỏi đã lạ, lại mở đầu với câu hỏi mà không có người trả lời,khiến mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ, nhưng bằng với nỗi nhớ diết da đã đưa Hàn Mặc Tử về với quê hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc,hờn dỗi của một cô gái như thủ thỉ ràng, sao lâu rồi mà tác giả không về thăm quê lấy một lần. Câu hỏi vốn đưa ra không phải để trả lời, mà gợi ra cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó giống như một lời mời gọi, vừa như là một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả lâu không về thăm thôn Vĩ. “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự vẫn, tự trách móc mình.
Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa màu sắc rực rỡ, lại vừa có hình ảnh của những cành trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc
Không trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết khiến tác giả có thể tượng tương ra cảnh chính mình đang đặt bước chân về với quê hương thân yêu. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, ngôn từ dùng để miêu tả khung cảnh, không chỉ đẹp mà còn có tính gợi. Mọi thứ như đều hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh nắng sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ lại vừa dịu dàng, như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời mọc. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khoác cho nó với ngôn từ “ nắng mới lên thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo,không một chút gợn của một ngày dài đã trải qua
Lúc này, Hàn Mạc Tử như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ, và với biện pháp so sánh, những vườn tược nơi đây đã trở thành những thứ mà dưới con mắt của một người nghệ sĩ được hóa thành chốn hữu tình:” vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm tốt tưới, từ “ mướt” được sử dụng ở đây quả thật không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như càng thêm huyền bí,đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới, đầy nhựa sống. Câu cuối của khổ 1 gợi ra nhiều suy nghĩ và liên tưởng nhất:” Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Phải chăng là hình ảnh lá trúc đang sà xuống những khu vườn vuông vắn tươi đẹp của xứ Huế, hay những cành trúc đang buông mình trước cửa của những ngôi nhà xứ Huế. Đâu đấy lại gợi ra vẻ e ấp của cô gái Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi ra vẻ đẹp duyên dáng mà cũng kín đáo.
Những câu thơ tiếp theo cho tôi thấy một nét khác của Huế, một sự chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Những câu thơ cho ta thấy tâm trạng trữu nặng của Hàn Măc Tử, hai câu thơ đầu gợi cảnh chia li sầu não buồn đến sâu thẳm. Điệp từ” gió” và “mây” cùng với nhịp điệu của câu thơ càng khiến cho khung cảnh chia li hiện rõ. Gió mây thường là một cặp, thường quấn quýt bên nhau nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây”. Hoa rơi nước cuốn là điều hiển nhiên nhưng lại ẩn chứa một tâm sự buông bã đến não lòng, sự chia li chia lìa ngày một hiện hữu. Nhìn cảnh hoa trôi gió cuốn mà chúng ta lại nhìn ra cả tâm trạng của thi nhân. Lòng buồn thiu, không có một nỗi niềm nào chất chứa. Hình ảnh trăng hiện ra, không chỉ ở bài thơ này mà còn nhiều bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ khác.Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Đối với Hàn Mặc Tử hình ảnh trăng trong thơ gợi cho người đọc một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ có trong thơ mới có thể có sông trăng và thuyền chở trăng. Nghệ thuật ẩn dụ của tác giả ở đây thật thơ mộng, mang đến cho ta niềm khao khát, đợi chờ. Nhưng lại mang một dự báo, hay một nỗi phân vân rằng “Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi.
Có thể nói Đây thôn Vĩ Dạ đã lấy nhiều cảm xúc của người đọc cả lúc ấy và cả độc giả thời đại hiện nay. Nó không chỉ gợi mở vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn là những cảm xúc sâu lắng cùng với niềm khát khao yêu đời, yêu người của tác giả nói riêng hay những người con yêu xứ Huế nói chung. Cảm nhận hai khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ là một đoạn thơ hay trong những vần thơ tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc tử, một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình yêu, cuộc sống.
Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ và bậc nhất của phong trào Thơ mới. Cuộc đời ông ngắn ngủi, đầy bi thương nhưng lại là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ để lại chặng đường thơ sáng ngời và nhiều bài thơ bất hủ cho hậu thế. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là tác phẩm xuất sắc nhất của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Hai khổ thơ đầu, tác giả giải bày tâm tư nhớ nhung tha thiết về thiên nhiên và con người xứ Huế. Nỗi buồn man mác thắm đượm cảnh vật.
Khổ 1: Cảnh vườn thôn Vĩ và tình người tha thiết:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
– Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Câu hỏi tu từ mở đầu mang nhiều sắc thái. Đó có thể là nhà thơ tự hỏi chính mình, tự vấn, trách bản thân không về thôn Vĩ. Đó có thể là câu hỏi của cô gái xứ Huế trách móc, hờn dỗi một cách duyên dáng, nhẹ nhàng, cũng như nhắc nhở, mời mọc một người bạn lâu rồi không về thăm.
– Dù là câu hỏi của người xứ Huế hay của chính tác giả đều biểu hiện khát khao, mong mỏi được mở lòng mình ra với cuộc đời mà nơi hướng về chính là thôn Vĩ.
– Ba câu sau gợi lên vẻ đẹp hữu tình của thôn Vĩ trong khoảnh khắc hừng đông:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
– Điệp từ “nắng” gợi ra ấn tượng về ánh sáng tràn ngập, tươi sáng, bao phủ chan hòa khắp không gian. “Nắng hàng cau”: hình ảnh của vườn cau tắm mình trong nắng. “Nắng mới lên”: tia nắng đầu tiên trong ngày đánh thức vạn vật, trong trẻo, tinh khôi, thanh khiết, dịu dàng
– Khu vườn: “mướt”: đó là màu xanh của sự mỡ màng, non tơ gợi sự trù phú của mảnh vườn thôn Vĩ, có thể là ướt nước do sương đêm còn đọng lại hoặc cũng có thể do nước mưa dài ngày ở Huế, gợi sự đan xen giữa xúc giác và thị giác.
– “Xanh như ngọc”: phản chiếu ánh nắng của mặt trời, biện pháp so sánh độc đáo khiến trong màu xanh có ánh sáng, có sương long lanh của buổi sớm mai.
– Đại từ phiếm chỉ “ai”: gợi suy nghĩ về chủ nhân khu vườn xứ Huế khiến bức tranh có hồn, có tình hơn.
– Con người thôn Vĩ: “Lá trúc che ngang”: vẻ đẹp kín đáo, bản tính dịu dàng của con người xứ Huế. Mang vẻ đẹp rất phương Đông: cái đẹp hài hòa giữa con người với thiên nhiên. “Mặt chữ điền” là khuôn mặt đầy đặn cân đối đẹp phúc hậu. Đó là một hình ảnh được cách điệu hóa. Đó không là mặt của một ai cụ thể mà nó đại diện cho vẻ đẹp của tâm hồn Huế, con người Huế : ngay thẳng, phúc hậu.
⇒ Khung cảnh thôn Vĩ được miêu tả rất tươi đẹp, đơn sơ, ấn tượng, giàu sức sống. Cảnh vật tinh khôi, trong trẻo, mướt xanh trong nắng sớm mai; con người kín đáo, phúc hậu. Đằng sau bức tranh phong cảnh là tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên, con người tha thiết cùng niềm băn khoăn day dứt của tác giả. Đó cũng là cái đẹp của tâm hồn tha thiết tình người, tình đời.
Khổ 2: Cảnh trời, mây, sông nước và niềm đau cô lẻ, chia lìa:
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
– Nhịp thơ 4/3 gió theo lối gió/mây đường mây + điệp từ ⇒ gió giăng một đằng, mây bay một nẻo không theo logic tự nhiên gợi sự chia cách, không thể trùng phùng
– Thủ pháp nhân hóa: “buồn thiu”: nhân hóa con sông thành một sinh thể có tâm trạng, vừa gợi hình, gợi cảm: dòng sông trôi đi một cách hờ hững, lặng lẽ, cô đơn.
– Động từ “lay”: sự lay động rất nhẹ như là sự níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng của kẻ bị chia lìa.
– “Thuyền ai”: đại từ phiếm chỉ “ai” tạo nên tính bất định cho chủ thể “thuyền” gợi lên một hình ảnh xa vời, diệu vợi, mông lung.
– Từ “kịp” thể hiện sự ám ảnh thời gian, sự chia lìa. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, khắc khoải, gây nên nỗi xót thương cho người đọc.
– Thủ pháp ẩn dụ:
+ “Trăng”: hình ảnh quen thuộc, ám ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử. Nhiều bài thơ, trăng là biểu tượng của tình yêu, hạnh phúc sự sống
+ “Bến sông trăng”: Bến bờ hạnh phúc, cõi sống.
+ Thuyền “chở trăng”: Thuyền chở hy vọng, hạnh phúc, sự sống
– Câu hỏi tu từ: “Có chở trăng về kịp tối nay?” thể hiện một sự thảng thốt, băn khoăn. Dường như tác tác giả đang ngóng trông, hy vọng và chạy đua với thời gian. Chỉ “tối nay” thôi, chứ tối mai hay tối kia đều muộn màng, không còn kịp nữa.
⇒ Cái thực và ảo hòa quyện, đan xen, giàu sức gợi: tâm trạng hoài nghi, mong ngóng, thể hiện khát vọng giao cảm với thiên nhiên và con người. Đó là tình yêu cuộc sống mãnh liệt.
+ Hai câu đầu bao quát toàn cảnh với hình ảnh gió mây chia lìa đôi ngả, “ dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” gợi nỗi buồn hiu hắt.
+ Hai câu sau tả cảnh dòng sông trong đêm trăng lung linh, huyền ảo, vừa thực vừa mộng. Đằng sau cảnh vật là tâm trạng vừa đau đớn, khắc khoải vừa khát khao cháy bỏng của nhà thơ.
Nghệ thuật:
– Từ ngữ chọn lọc, hình ảnh độc đáo, giàu sức gợi, có sự hòa quyện giữa thực và ảo.
– Sử dụng có hiệu quả các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ.
– Ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, đa nghĩa
– Câu hỏi tu từ phù hợp với tâm trạng.
– Giọng điệu khi tha thiết, khi đắm say, khi khắc khoải, u buồn
⇒ Bài thơ là cảnh xứ Huế thơ mộng, trữ tình, tràn đầy sức sống, chứa đựng tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Đồng thời, bài thơ cũng chứa đựng nỗi cô đơn, tuyệt vọng của thi nhân nhưng vẫn khát khao yêu, sống mãnh liệt, thể hiện một nghị lực sống phi thường.
Hai khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của xứ Huế, thể hiện qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ. Đoạn thơ kết tinh sự sáng tạo và phong cách nghệ thuật độc đáo của Hàn Mặc Tử, thể hiện lòng yêu thiên nhiên, yêu dời, yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ. Với nghệ thuật gợi liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với lòng người, trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.
—/—
Trên đây là các bài văn mẫu Cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!