/tmp/znwjv.jpg
Để tìm hiểu sâu hơn về giá trị tác phẩm Viếng lăng Bác, mời các em tham khảo một số bài văn mẫu Nêu cảm nhận của em về bài thơ Viếng lăng Bác ngắn gọn sau đây. Hi vọng với các bài văn mẫu đặc sắc này các em sẽ có thêm tài liệu, cách triển khai để hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất!
Nội dung bài viết
1. Mở Bài
– Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Viễn Phương.
– Hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
2. Thân Bài
a) Cảm xúc của tác giả trước cảnh quan bên ngoài lăng (khổ 1)
* Câu thơ thứ nhất như một lời thông báo giản dị mà chứa đựng nhiều tình cảm lớn lao.
– Cách xưng hô “Con – Bác”: Thể hiện sự gần gũi, thân thiết, không có khoảng cách.
– Tác giả dùng từ thay thế “thăm” không phải “viếng” làm vơi bớt đi nỗi đau đớn ẩn sâu trong đáy lòng mỗi người dân Việt Nam: Bác Hồ vẫn còn sống.
– Cụm từ “Con ở miền Nam” vừa thể hiện nỗi đau mất mát, vừa thể hiện niềm tự hào lớn lao: Miền Nam gian khổ mà anh dũng.
– Hình ảnh ấn tượng: “hàng tre” vừa có nghĩa thực (là loài cây quen thuộc của mỗi làng quê Việt Nam), vừa có nghĩa biểu tượng (hình ảnh con người Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp…)
– Dùng từ cảm thán: “Ôi!” biểu thị niềm xúc động xen lẫn tự hào trước hình ảnh hàng tre.
b) Cảm xúc của nhà thơ trước hình ảnh dòng người chầm chậm vào lăng viếng Bác ( khổ 2)
– 2 câu thơ đầu: Cách dùng từ đặc sắc, giàu sức sáng tạo: cặp từ tả thực và ẩn dụ sóng đôi.
+ “Mặt trời” thứ nhất: Là mặt trời từ thiên nhiên của tạo hóa.
+ “Mặt trời” thứ 2: Là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác.
+ Chi tiết “rất đỏ” đã gợi lên một trái tim đầy yêu thương, nhiệt huyết vì nhân dân của Bác.
– 2 câu thơ sau:
+ Điệp từ “ngày ngày”
+ Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh tả thực gợi tả hằng ngày dòng người vào lăng viếng Bác trong niềm xúc động, tiếc thương.
+ Hình ảnh “tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ: Tác giả ví dòng người dài như kết thành tràng hoa để dâng lên Người.
c) Cảm xúc của tác giả khi đứng trước di hài của Bác trong lăng (4 câu tiếp theo)
– Tình cảm bị dồn nén bấy lâu nay đã trào dâng, thổn thức:
+ Từ ngữ “giấc ngủ bình yên”: Chỉ là giấc ngủ bình thường, không phải giấc ngủ vĩnh viễn. Bình yên trong niềm yêu thương của con người và vạn vật.
+ Hình ảnh “vầng trăng” được nhà thơ dùng để ví với Bác.
+ Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” gợi lên những suy ngẫm về con người vĩ đại, cao cả, bất diệt.
+ Câu thơ cuối là một sự thật: Bác đã ra đi mãi mãi. Đó là một nỗi đau vô hạn, xót thương. Dù lí trí đã không muốn tin đó là sự thật.
d) Cảm xúc của tác giả trước lúc sắp phải về miền Nam (khổ cuối)
– Lòng thương nhớ bấy lâu nay đã vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào. Đó là những giọt nước mắt của nhớ thương, lưu luyến không nỡ rời xa.
– Điệp từ “muốn làm” cùng các hình ảnh đứng sau đó đã tạo nên nhịp thơ dồn dập diễn tả tình cảm tha thiết, khát vọng trào dâng mãnh liệt và ước nguyện chân thành của nhà thơ và của tất cả mọi người.
– Hình ảnh cây tre được lặp lại ở câu thơ cuối mang thêm một ý nghĩa mới.
3. Kết Bài
– Bài thơ là nỗi lòng không chỉ của nhà thơ mà của hàng triệu trái tim nhân loại muốn thể hiện sự thành kính, biết ơn sâu sắc tới vị lãnh tụ kính yêu của cả nước.
Bác Hồ mất đi là một sự kiện lớn làm xúc động muôn triệu trái tim Việt Nam và thế giới, làm cảm động cả đất trời: “Trời tuôn nước mắt, đời tuôn mưa”. Hầu như nhà thơ nào cũng làm thơ khóc Bác, viếng Bác. Trong đó có nhà thơ Viễn Phương với bài “Viếng lăng Bác”.
Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương không chỉ là một bài thơ viếng hay khóc Bác bình thường. Bác mất năm 1969. Mùa xuân 1975 đất nước mới thống nhất, năm 1976 Viễn Phương mới tới viếng lăng Người. Như vậy là viếng Bác, khóc Bác cũng là thăm Bác. Cả ba nhập vào một chuyến đi. Một chuyến hành hương mà đồng bào chiến sĩ miền Nam chờ đợi, mong mỏi và chiến đấu trong suốt mấy chục năm trường.
Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng hô thật hồn nhiên mà tha thiết. Bác là cha cho nên mới xưng con. Nhưng con ở miền Nam lại mang một sắc thái thiêng liêng – đứa con xa vắng mặt ngày cha mất. Miền Nam là nơi đi trước về sau, nơi Bác Hồ hằng mong nhớ. “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà. Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre đã biết bao xúc động:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Với từ con, với hình ảnh hàng tre, nhà thơ dã tạo nên một không khí thật thân thương gần gũi và thiêng liêng nơi lăng Bác.
Không gian quanh lăng Bác trở thành một không gian đặc biệt thương nhớ. Không gian thương nhớ ấy như là bất tận với thời gian, được láy đi láy lại bằng chữ ngày ngày. Dòng thời gian liên tục. Dòng người cũng như không ngừng nghỉ. Người mang hoa, người kết thành hoa dâng lên bảy mươi chín mùa xuân, dâng lên một cuộc đời chiến đấu hi sinh vì dân vì nước. Tình cảm với Bác được nén lại ở khổ thơ đầu được bày tỏ kín đáo qua cách dùng ẩn dụ: “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”. Ví Bác với mặt trời, nhà thơ muốn khẳng định Bác chính là ánh sáng chỉ đường cho nhân dân Việt Nam.
Nhưng đến khổ thơ thứ ba thì tình cảm mới bộc lộ một cách trực tiếp. Đó là tình thương, nỗi đau được bộc phát khi nhìn thấy Bác nằm trong lăng: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Đây là cái giật mình thảng thốt. Tất nhiên, trong nhận thức lý trí nhắc ta Bác vẫn còn sống mãi. Nhưng đây là nỗi đau nhói lên từ đáy sâu trái tim. Bác mất thật rồi. Bác không thể gặp mặt những người con miền Nam mà người hằng mong nhớ.
Khổ thơ cuối là cảm xúc trước khi ra về:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
…
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương nhớ làm trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào. Một cảm xúc dâng trào mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn làm nảy sinh bao ước muốn. Ước muốn làm con chim hót quanh lăng bác để lại chút vui tươi nhí nhảnh bên một con người đã hy sinh cả gia đình tình riêng vì đất nước. Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương quanh lăng. Một làn hương như thực như hư đâu đây thoang thoảng. Ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng để canh giấc ngủ cho người. Tất cả mọi ước muốn đề quy tụ vào một điểm là muốn được gần Bác mãi mãi, không rời xa.
Tóm lại, với những hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa, với giọng thơ nghiêm trang thành kính, với cảm xúc hết sức chân thành, nhà thơ viễn Phương đã nói hộ cho mọi người nỗi xúc động thiêng liêng, lòng biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ – vị cha già của dân tộc.
Viếng Lăng Bác của Viễn Phương là một trong những bài thơ vô cùng xúc động. Bài thơ ra đời trong khoảnh khắc xúc động, bài thơ là tấm lòng thành kính sót thương biết ơn vô hạn của nhà thơ cũng như đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ, người cha già kính yêu dân tộc.
Lần đầu tiên nhà thơ được ra miền Bắc viếng Bác khi vào lăng viếng Bác.
” Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ chất chứa biết bao tình cảm con người ra thăm lăng Bác. Lời thơ còn ẩn chứa nỗi niềm ra thăm Bác nào ngờ ngày hội thống nhất non sông Bác không còn nữa, nhà thơ không nói viếng mà nói thăm bởi không muốn nghĩ rằng Bác đã đi xa. Mọi người vè thăm Bác – thăm cha là lẽ tự nhiên. Ấn tượng đậm nét đầu tiên về cảnh qua nơi Bác nghỉ là hàng tre bát ngát trong sương sớm biết bao sức sống.
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi!Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Xa xa nổi bật là hàng tre bát ngát một hình ảnh thân quen ở đâu tại Việt Nam cũng thấy. Tre kiên cường bất khuất, tre biểu tượng đẹp của con người Việt Nam dẻo dai bền bỉ kiên cường trước mọi phong ba bão táp lửa đạn kẻ thù. Tre kiên định anh hùng nay lại đứng bên Người bảo vệ cho người yên giấc, nỗi xúc động trào dâng khiến nhà thơ thốt lên ” Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”
Thể hiện sự thiêng liêng thành kính tự hào bởi từ lâu cây tre – Hồ Chí Minh đã có mối quan hệ nội tại gắn bó và thống nhất trở thành biểu tượng quen thuộc với nhân dân thế giới.
Khổ hai có hai câu đối xứng chứa hai hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ. Hình ảnh thực là hình ảnh mặt trời thiên nhiên rực rỡ vĩnh hằng, và hình ảnh ẩn dụ mặt trời trong lăng rất đỏ là Bác. Nếu mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng hơi ấm sự sống cho muôn loài thì Bác Hồ là mặt trời đem lại sự đổi thay dân tộc. Hai hình ảnh sánh đôi soi chiếu tỏa sáng cho nhau. Cũng như vậy nhà thơ lấy hình ảnh thật của đoàn người. Hằng ngày nối đuôi nhau thành hình ảnh ” Đi trong thương nhớ, kết tràng hoa” các so sánh vừa đẹp vừa lạ. Đoàn người kết thành dây hoa bất tận dâng người 79 mùa xuân. Cách dùng từ tinh tế và hình ảnh đẹp diễn tả tình cảm nhớ thương cũng như của nông dân Việt Nam miền Nam với Bác.
Nhà thơ diễn tả cảm xúc sót thương khi vào tới bên trong lăng. Khung cảnh trang nghiêm yên tĩnh như liên kết cả không gian thời gian và người nằm đó thanh thân bình yên.
” Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”
Hình ảnh Bác ” giấc ngủ bình yên, giữa một vầng trăng sáng dịu hiền câu thơ thực và mộng gợi nhiều liên tưởng. Từ hình ảnh vầng trăng liên tưởng tới thơ Bác nhiều bài tràn ngập ánh trăng. Với hình ảnh trăng nhà thơ còn muốn tạo ra một hình ảnh kì vĩ Bác – Mặt trời – Vầng trăng – Trời xanh. Nếu mặt trời là biểu tượng của ánh sáng lí tưởng thì vầng trăng lại là tâm hồn trong sáng cao đẹp là tình yêu thương dịu hiền của Bác với mọi người. Vẫn biết Bác sống mãi với nhân dân đất nước như mặt trời, vầng trăng, bầu trời xanh nhưng sao vẫn nghe nhói đau trong tim. Nỗi đau trước một sự thật không khác được là Bác đã đi xa.
Cảm xúc dân trào sau phút giây ngắn ngủi ở bên người, ngày mai trở về miền Nam, những nguyện ước trân thành lại trào lên trong tâm hồn nhà thơ.
” Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏ hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Thương trào nước mắt đó là một tình cảm rất thực không chỉ ở nhà thơ mà bất cứ ai đến viếng Bác. Nước mắt không phải rưng rưng mà trào ra đó là cảm xúc mãnh liệt chính từ cảm xúc nhớ thương vô hạn ấy mà lời thơ trở lên dứt khoát diễn tả bao ước muốn ” Muốn làm chim hót, hoa tảo hương, cây tre”. Mọi ước muốn của nhà thơ đều quy tụ một điểm là mong được gần Bác. Bước chân trở về miền Nam mà lòng biết bao lưu luyến nhớ thương, hình ảnh cây tre tái hiện khép kín, bài thơ như một sự hô ứng khiến kết cấu bài thơ chặt chẽ giàu cảm xúc giày ý nghĩa.
Bài thơ ” Viếng Lăng Bác ” đã để lại cho bạn đọc rất nhiều cảm xúc sâu lắng và thiết tha. Với nhiều hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và những biện pháp tu từ đặc sắc, nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ Viếng Lăng Bác, Viễn Phương đã thay mặt nhân dân miền Nam nói riêng và toàn thể nhân dân cả nước nói chung dâng lên Bác những nỗi niềm cảm xúc chân thành, sự tôn kính thiêng liêng. Bài thơ vẫn sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc và gợi nhắc cho những thế hệ mai sau kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng một cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của một người vĩ đại mà vô cùng giản dị – Hồ Chí Minh, người đã sống trọn một đời tươi đẹp.
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Năm 1976, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội cũng vừa được khánh thành. Viễn Phương nhân dịp này ra thăm miền Bắc và vào lăng viếng Bác Hồ. Ông đã sáng tác bài thơ “Viếng lăng Bác” để bộc lộ lòng thành kính, biết ơn với chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam.
Đến với khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã khác họa đôi nét về hình ảnh thiên nhiên bên ngoài lăng Bác:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp Mưa sa đứng thẳng hàng
Câu thơ mở đầu là lời giới thiệu đầy thân tình: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng “con” – gọi “bác” cho thấy sự thân thương, ngọt ngào và đậm chất Nam Bộ. “Con” ở miền Nam xa cách, vượt trăm ngàn cây số đến đây với mong muốn được gặp Bác Hồ – người cha già đáng kính. Tác giả dùng từ “thăm” thay vì từ “viếng” nhằm giảm nhẹ nỗi đau thương, mất mát nhưng vẫn chẳng thể che giấu được sự ly biệt. Hình ảnh đầu tiên mà “con” nhìn thấy là “hàng tre bát ngát”. Cây tre vốn là loài cây quen thuộc, đã trở thành biểu tượng cho những đức tính, phẩm chất của người Việt Nam. Khi kết hợp với hình ảnh “bão táp mưa sa” – ẩn dụ cho sự khó khăn gian khổ trong cuộc đời. Tác giả muốn khẳng định phẩm chất của con người Việt Nam cũng giống như cây tre, dù trải qua giông bão vùi dập vẫn “đứng thẳng hàng” – vẫn ngay thẳng, hiên ngang và luôn tràn đầy sự sống.
Đến khổ thơ tiếp theo, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh đoàn người vào lăng viếng Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Hai câu thơ đầu được tạo nên bởi hai hình ảnh “mặt trời”. “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng” – đó là mặt trời của tự nhiên chuyển động theo quy luật tuần hoàn của thời gian. “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” – hình ảnh ẩn dụ, ví Bác như “mặt trời” có sức lan tỏa, soi sáng cuộc đời của người dân Việt Nam. Bác đã đem lại cuộc sống tự do cho nhân dân ta, đưa nhân dân ta thoát khỏi ách nô lệ. Chẳng thể nào nói hết được lòng biết ơn vô hạn của nhân dân dành cho vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc. Hai câu thơ tiếp theo là sự liên tưởng đến hình ảnh dòng người đang nối dài vô tận, cũng giống như nỗi nhớ dành cho Người. Cụm từ “ngày ngày” được điệp lại hai lần tạo nên một ước muốn về một cõi bất tử. “Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ cho những người con từ khắp mọi miền tổ quốc đang hội tụ về đây, vào trong lăng viếng Bác. Ngày qua ngày, từng dòng người vẫn nối tiếp nhau vào trong lăng viếng Bác. Dù đã ra đi, nhưng Người đã để lại cho nhân dân một niềm tiếc thương vô hạn, một nỗi nhớ khó có thể nguôi ngoai.
Và rồi không gian và thời gian như ngừng chuyển động trước hình ảnh của Người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Cuộc đời của Hồ Chủ tịch chưa lúc nào yên giấc khi mà đất nước, nhân dân đang chịu sự cai trị của kẻ thù xâm lược. Đến nay, khi đã giành được độc lập, hai miền Nam – Bắc về chung một nhà, thì Bác lại ra đi mãi mãi. Điều ấy đã để lại niềm tiếc thương vô hạn. Nhà thơ dường như muốn tạm quên đi sự ra đi ấy: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”. Dường như Bác chỉ đang nằm trong một giấc ngủ dài vô tận thôi. Với lòng yêu thương, ngưỡng mộ, khổ thơ thứ ba là lời thương xót và ước nguyện của nhà thơ. Bác như “vầng trăng sáng dịu hiền” – hình ảnh biểu tượng cho vẻ đẹp của Bác lúc này vô cùng thanh thản, bình yên. Người quả thật không mất đi mà chỉ đang ngủ thôi, Người vẫn còn sống với nhân dân, với đất nước. Mạch cảm xúc của bài thơ bỗng nhiên lắng xuống ở hai câu thơ cuối. Dẫu biết rằng trời xanh là mãi mãi – trời xanh là biểu tượng cho sự trường tồn bất tử của Bác. Bác vẫn còn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam. Dẫu biết vậy, mà sao vẫn “nghe nhói ở trong tim” – vẫn cảm thấy xót xa, tiếc nuối vô cùng.
Và lời cuối cùng trước khi trở về, Viễn Phương đã bộc lộ niềm mong muốn:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Đó là lời hứa mà nhà thơ trước khi trở về miền Nam. Nhà thơ muốn “làm con chim hót quanh lăng Bác”, “đóa hoa tỏa hương đâu đây”, “cây tre trung hiếu chốn này”. Dù muốn trở thành gì, nhà thơ đều muốn được gần bên Bác, tận trung tận hiếu với Người.
Quả thật, khi đọc bài thơ “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương, người đọc mới thấy được tình cảm sâu nặng mà nhân dân Việt Nam dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mà nhà thơ chỉ là người nói thay tấm lòng ấy.
—/—
Trên đây là một số bài văn mẫu Nêu cảm nhận của em về bài thơ Viếng lăng Bác ngắn gọn mà Top lời giải đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!