/tmp/nfjnr.jpg
Nội dung bài viết
– Trong tế bào lưỡng bội của loài tồn tại 2 loại NST là: NST thường và NST giới tính.
– NST giới tính là loại NST có chứa gen quy định giới tính và các gen khác.
– Giữa NST thường và NST giới tính có sự khác nhau:
– Ở đa số loài giao phối, giới tính được xác định trong quá trình thụ tinh, vì dụ như: ở người.
– Cơ chế xác định giới tính là sự phân li của cặp NST giới tính trong quá trình phát sinh giao tử và được tổ hợp lại qua quá trình thụ tinh.
– Cơ thể mẹ giảm phân cho ra 1 loại trứng: mang NST 22A + X và 3 thể cực → giới đồng giao tử
– Cơ thể bố giảm phân cho ra 4 tinh trùng thuộc 2 loại là: NST 22A + X và NST 22A + Y → giới dị giao tử
– Giao tử X của mẹ kết hợp với giao tử (X và Y) của bố tạo ra hợp tử: XX (con gái) và XY (con trai) với tỷ lệ xấp xỉ 1 : 1 → cân bằng giới tính.
→ Tỉ lệ này nghiệm đúng khi số lượng cá thể đủ lớn và quá trình thụ tinh giữa các tinh trùng và trứng diễn ra hoàn toàn ngẫu nhiên.
Nghiên cứu trên người cho thấy tỉ lệ trai : gái khác nhau ở các giai đoạn: bào thai (1,14), 10 tuổi (1,01), tuổi già (0,91).
Sự phân hóa giới tính chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài:
+ Nhân tố bên trong: hoocmon sinh dục nếu tác động sớm có thể biến đổi giới tính…
+ Nhân tố bên ngoài: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng đều có thể làm thay đổi tỉ lệ giới tính.
– Người ta đã ứng dụng di truyền giới tính vào các lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là việc điều khiển tỉ lệ đực: cái trong lĩnh vực chăn nuôi.
VD: Ở loài rùa: trứng được ủ ở nhiệt độ < 28C sẽ nở thành con đực; trên 32C sẽ nở thành con cái.
Xem toàn bộ Soạn sinh 9: Bài 12. Cơ chế xác định giới tính