/tmp/wjqvf.jpg
Nội dung bài viết
Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao. Truyện ngắn Chí phèo đã được Nam Cao tái hiện lại hình ảnh nông thôn của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ (trước Cách mạng tháng Tám). Đó là một xã hội được đặc trưng bởi một bên là bộ mặt của Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo. Đây là một đội ngũ cường hào, đại chủ thống trị, bóc lột sức lao động của nhân dân. Nhưng cũng chính trong nội bộ này cũng có sự mâu thuẫn. Bọn chúng như một đàn cá tranh mồi. Mồi thì ngon mà bè nào cũng muốn ăn, do đó, chúng luôn rình cơ hội để thống trị lẫn nhau, muốn cho nhau lụi bại để cưỡi đầu cưỡi cổ lên nhau. Mâu thuẫn khá phổ biến, gay gắt, có liên quan đến những số phận Binh Chức, Năm Thọ và đặc biệt là Chí Phèo.
Trọng tâm phân tích nghị luận văn học chí phèo là tầng lớp thứ hai. Đây là những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức, họ lại hợp thành một nhóm riêng. Họ là những người dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã bị manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai cho bọn địa chủ thống trị, những tên cường hào, lí dịch và gây nên không biết bao nhiêu tội vạ cho những người lương thiện. Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện lên đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ.
1. Nghị luận văn học chí phèo luận điểm 1: Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo
Từ người nông dân lương thiện đến lưu manh:
Chí vốn là một thằng không cha, không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, bạn bè,,, Cả một thời niên thiếu sống bơ vơ: “đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ”. Lớn lên đi làm canh điền cho cường hào trong vùng. Lúc ấy Chí vẫn là một nông dân lương thiện, khỏe mạnh về thể xác và lành mạnh về tâm hồn – một con người “hiền như đất”, giàu lòng tự trọng và biết phân biệt tình yêu cao thượng và nhục dục thấp hèn. Chí từng mơ ước một gia đình “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải” – một ước mơ giản dị và rất người. Tuy nhiên, một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù, bắt đầu một quá trình tha hóa một con người. Trong nghị luận văn học chí phèo thì đây chính là bước ngoặt quan trọng của tính cách nhân vật
Nhà tù vốn là nơi để người có tội chuộc lỗi, là công cụ cải tạo con người. Vậy mà nhà tù thực dân đã tiếp tay cho bọn cường hào, ác bá, giết chết đi phần người trong Chí Phèo, để Chí mãi trượt dài trên dốc của sự tha hóa. Trở về sau 7,8 năm tù, Chí Phèo trở thành một “người ngoài” ở làng Vũ Đại vì sự đáng sợ toát lên ở vẻ ngoài: “Cái đầu trọc lốc… trông gớm chết!”. Không chỉ biến dạng về diện mạo, hình hài đến trang phục, tính tình cũng khác: “Hắn mặc cái quần nái đen… trông gớm chết”.
Và Chí, giữa cái xã hội mà ai cũng nghĩ “chắc nó trừ mình ra”, lạnh lùng xa lánh hắn. Hắn uống rượu, chửi bới, dọa đốt quán, rạch mặt ăn vạ… Hắn đã trở thành một phần tử lưu manh một cách mù quáng.
Từ một kẻ lưu manh đến quỷ dữ làng Vũ Đại
Không dừng ở đó, dưới bàn tay quỷ quyệt của Bá Kiến, Chí Phèo đã trở thành một công cụ gây tội ác trong mắt người dân làng Vũ Đại. Người đẩy Chí vào bước đường ấy là Bá Kiến, vậy mà Chí Phèo không thể đòi lại công bằng cho mình. “Hắn tác quái cho bao nhiêu dân làng, phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện… “.
Thông qua điển hình văn học chí phèo, Nam Cao đã vẽ nên bức tranh khái quát xã hội thực dân nửa phong kiến giai đoạn trước 1945
Và cứ như thế, Chí Phèo dấn sâu vào tội ác, vực thẳm của đau thương và tội lỗi, bị chính kẻ thù lợi dụng và trượt dài trên con đường tha hóa, không lối thoát => Đây chính là bước ngoặt thứ hai trong nghị luận văn học chí phèo. Tấn bi kịch đầy nghịch lý, vừa là nạn nhân của bọn cường hào, ác bá, vừa là con quỷ dữ của làng, bị mọi người xa lánh, ngoảnh mặt. Ngòi bút nhân đạo của nhà văn Nam Cao đã vạch trần hiện thực trước mắt người đọc, đó là sự cùng quẫn của hoàn cảnh sống, sự nham hiểm, độc ác của bọn cường hào, địa chủ ở nông thôn, sự phi nhân tính của nhà tù thực dân và định kiến của đồng loại đối với những con người cùng đinh, khốn khổ như Chí Phèo. Chính xã hội phi nhân tính đã đẩy con người vào con đường lưu manh, tha hóa.
2. Nghị luận văn học chí phèo luận điểm 2: Quá trình thức tỉnh của Chí Phèo
Sau đêm gặp Thị Nở
Lần đầu tiên sau những cơn say vô tận, “hắn tỉnh” và nhận ra cuộc sống xung quanh qua những âm thanh: “Tiếng chim hót… cá…”. Những âm thanh cuộc sống rất thực ngoài kia đang đánh thức hắn, kéo hắn ra khỏi những ngày tháng u mê, tăm tối, gợi nhắc đến mơ ước rất người mà hắn từng ấp ủ. Chí thức tỉnh và sống lại với những cảm xúc rất người cùng ý thức cũng đã trở lại trong hắn.
Sự chăm sóc của Thị Nở làm tâm hồn Chí Phèo thực sự hồi sinh
Đó là lần đầu tiên Chí được chăm sóc bởi bàn tay một người đàn bà, bằng một bát cháo hành giản dị, chân thành của Thị Nở. Đó là bát cháo từ bàn tay ấm nóng tình thương làm “hắn rất ngạc nhiên”, “hết ngạc nhiên hắn thấy mắt hình như ươn ướt”. Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh, những cảm xúc rất người. Đây là bước ngoặt thứ ba trong nghị luận văn học chí phèo. Hắn khóc. Bởi vì “đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho”, hắn được cư xử như một con người. Trước đây, muốn được ăn, hắn toàn phải dọa nạt, giật cướp, phải rạch mặt ăn vạ… Chính hương vị cháo hành – thứ hương vị của tình thương chân thành và cảm động. Hạnh phúc giản dị mà thấm thía lần đầu tiên Chí được nhận lấy đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện… thân thiện của những người lương thiện.” Quả là kì diệu. Cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lương thiện bị vùi dập lâu nay lại bừng sáng trong tâm hồn Chí Phèo.
Sự thức tỉnh về quyền làm người và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện
Trong lúc tưởng chừng như hạnh phúc đã thuộc về mình, hắn cay đắng nhận ra rằng mình “không thể làm người lương thiện được nữa”, Thị Nở từ chối hắn, mọi người từ chối hắn. Hắn đã gây ra bao bất hạnh cho bao người. Mọi nẻo đường để quay về một cuộc sống bình dị, lương thiện đã bị khép chặt. Hắn thức tỉnh nên ý thức rất rõ bi kịch của cuộc đời mình, thấm thía và đớn đau.
Hắn tìm đến rượu, nào ngờ đâu không làm hắn say mà “càng uống càng tỉnh”. Cái tỉnh của Chí là cái tỉnh của một con người với nỗi đau quá lớn và ý thức rất rõ về cuộc đời mình trong sự bất lực, buông xuôi. Sự từ chối của Thị Nở đã khép lại bao hy vọng của hắn. Hơn bất cứ lúc nào, hắn cảm thấy nỗi bất hạnh to lớn đè nặng tâm hồn mình, để rồi chỉ có thể bất lực mà “ôm mặt khóc rưng rức”.
Từ cao trào thứ tư – cao trào cuối cùng đó trong nghị luận văn học chí phèo, không còn con đường nào khác, Chí Phèo vác dao đến nhà Bá Kiến. Những vết cắt của tội lỗi đã hằn trên khuôn mặt hắn, hắn biết rằng đã quá muộn màng để quay đầu. Chí Phèo vung dao giết Bá Kiến nhưng hắn không để mình trở lại cuộc sống của một quỷ dữ như trước nữa. Và lưỡi dao oan nghiệt cũng đã kết thúc một kiếp người khốn khổ. Cái chết Chí Phèo đầy uất hận nhưng đó là nỗi khao khát của người nông dân bị tha hóa, muốn được lương thiện. Chí Phèo chết bởi hắn khao khát lương thiện nhưng định kiến xã hội đã không chừa cho hắn cơ hội. Chí Phèo chết trong sự nhận thức rất rõ về chính mình và bi kịch bị từ chối ấy.
Miêu tả quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo là yếu tố làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Tác phẩm là tiếng nói đanh thép, tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã xô đẩy bao con người lương thiện đến tận cùng của sự tha hóa. Tác phẩm còn là niềm tin yêu vào những người lao động cùng khổ
Thể hiện quá trình tha hóa và thức tỉnh, Nam Cao đã thể hiện bản lĩnh của một cây bút hiện thực sắc sảo, tạo nên một hình tượng nghệ thuật đa diện có sức sống nội tạng, để lại nhiều suy ngẫm trong lòng độc giả. Quá trình tha hóa và thức tỉnh trong nghị luận văn học chí phèo được nhà văn Nam Cao thể hiện hết sức thành công. Bằng biện pháp nghệ thuật nghiêm ngặt của một cây bút văn học hiện thực xuất sắc cùng với cảm xúc của một trái tim “sống đời, trải đời” giàu tình thương với con người và cuộc sống, làm cho “người gần người hơn”.
Nguyễn Đình Thi cho rằng “tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi”. Trích “nhà văn nói về tác phẩm”. Nhà xuất bản Văn học năm 1998.
Anh, chị hiểu điều đó như thế nào? Bằng hiểu biết của mình về tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Bài làm.
“Cái quan trọng trọng tài năng văn học là lối nói riêng của Nhà văn, là giọng riêng của nhà văn mà ta không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ người nào khác”, (Tuốc ghê nhep). Đúng như vậy! Nghệ thuật chính là lĩnh vực của cái độc đáo tức là phong cách một cái gì đó rất mới, rất riêng biệt mà ta bắt gặp khi đọc xong một tác phẩm. Và cũng chính sự mới mẻ, khác lạ đó đã làm nên sức sống lâu bền của một tác phẩm văn chương thực thụ. Trăn trở về việc tạo dựng lối đi riêng cho mình, Nguyễn Đình Thi cho rằng “tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều những việc mà ai cũng biết cả rồi. Nguyễn Đình Thi đã thực sự sáng suốt khi nghiền ngẫm ra điều này trong suốt quá trình sáng tạo nghệ thuật của ông và truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao chính là một lời giải thích thỏa đáng khơi thông khúc mắc trong lòng nghệ sĩ về nhận định này.
“Cách nhìn nhận” là con mắt suy xét nhìn người, nhìn đời của Nhà văn. Hay nói cách khác đây chính là những phát hiện mới mẻ, độc đáo của nhà văn về con người, về cuộc đời mà cách nhìn đó khác xa hoàn toàn với những nhà văn cùng thời. Tình cảm là những rung động, thương yêu xuất phát từ sâu thẳm trái tim, nhưng ở đây lại là tình cảm mới có nghĩa là khác xa với những tình cảm yêu, ghét, giận, hờn bình thường những sự cảm thông mà các nhà văn khác đã phát hiện, cảm thông, chia sẻ hết rồi. “tình cảm mới” ấy là sự yêu thương, chia sẻ, cảm thông nhưng nỗi đau bất hạnh mà chưa ai dám chạm tới, nay mới được giang rộng vòng tay đón nhận. và một tác phẩm lớn rất cần đến hai yếu tố này, từ đây ta thấy Nguyễn Đình Thi đưa ra một nhận xét vô cùng sâu sắc và đúng đắn. Một tác phẩm thật sự có giá trị phải là một tác phẩm được tạo dựng nên những khám phá mới mẻ về cuộc sống và con người, để tự nó rung lên những thương cảm cho nỗi khổ tột cùng mà khó thấy của họ cho dù đề tài đó đã được khai thác rất nhiều lần. Đó không phải là một tác phẩm hời hợt viết về những điều mà ai cũng biết và thấy cả rồi. Bởi lẽ “Nghệ thuật là sáng tạo, nghệ thuật không bao giờ lặp lại” (Tố Hữu) một tác phẩm chỉ đi theo lối mòn đã dẫn sẵn thì cũng sẽ chết dần chết mòn theo thời gian mà thôi, nghệ thuật không đơn thuần là sự sao chép y nguyên thực tại, mà nó đòi hỏi một cái gì đó cao hơn, phải độc đáo, mới mẻ riêng biệt và khác nó, điều đó đòi hỏi nhà văn phải có phong cách như sê-khốp đã nói “nếu tác giả không có lối nói riêng, thì đó không phải là nhà văn, nếu nhà văn không có giọng nói riêng thì anh khó trở thành nhà văn thực thụ, văn chương không đơn giản như ta tưởng, không phải cũng có thể thưởng được. Bởi lẽ “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có”, tựa chung là Nguyễn Đình Thi đã đề cao tính sáng tạo trong văn chương và đây cũng là một quan điểm nghệ thuật gắn bó suốt đời cầm bút của nhà văn Nam Cao và truyện ngắn “Chí Phèo” là một ví dụ điển hình, minh chứng cho quan điểm mới mẻ đó.
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại, trong suốt cuộc đời lao động nghệ thuật nhà văn luôn trăn trở, sửa soạn cho cái tôi nghệ thuật của mình tiến một bước cao hơn và ngày càng hoàn chỉnh. Nam Cao không chỉ đề cao tính sáng tạo trong nghệ thuật, mà ông còn quan niệm nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. Không những thế nam cao còn coi trọng tấm lòng nhân đạo, bác ái, vị tha và lương tâm nghề nghiệp trong mỗi tác phẩm của mình, với một quan điểm nghệ thuật tiến bộ như thế những tác phẩm của Nam Cao đã lấy đi không ít nước mắt và sự day dứt, suy nghĩ của bạn đọc. Một trong những tác phẩm đánh giấu dấu tên tuổi và gây được tiếng vang trong xã hội trước cách mạng tháng Tám năm 1945 là truyện ngắn “Chí Phèo” tác phẩm được sáng tác năm 1942 trong in trong tập “luống cày”, lần đầu có tên là “cái lò gạch” chuyện không chỉ hấp dẫn bởi bạn đọc bởi cốt truyện độc đáo, với những tình tiết gây cấn, bất ngờ bởi một Chí Phèo vừa đáng sợ vừa đáng thương mà còn bởi tài năng sáng tạo của Nam cao một sự mới mẻ độc đáo cả về nội dung, lẫn hình thức nghệ thuật.
Đề tài người nông dân là một đề tài tốn không ít giấy mực của nhiều nhà văn đương thời, ấy vậy mà Nam Cao vẫn dấn thân vào lối mòn đó nhưng cái đặc biệt là ông đã cày xới lên để tìm ra cái mới. Trước Nam Cao đã có biết bao tác phẩm viết về đề tài người nông dân đó là tiểu thuyết “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố viết về chị Dậu với cái khổ của sưu cao, thuế nặng, đó còn là bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan về một anh Pha bị đẩy đến chân vực thẳm không còn đường lùi, nay đến Nam Cao ta lại bắt gặp một Chí Phèo mà cái khổ này khác hẳn với những cái khổ trước đó. Chị Dậu khổ vì phải bán con, bán chó, phải đi ở thuê nhưng chị vẫn còn được là một con người, ta không cầm được nước mắt khi đọc những trang văn của Ngô Tất Tố. Nhưng càng đau xót hơn khi bắt gặp hình ảnh Chí Phèo ngất ngưởng trong cơn say hiện lên qua cái nhìn của Nam Cao nhà văn đã phát hiện ra cái khổ nhất trong những cái khổ, còn gì khổ hơn nỗi đau này khi mà Chí Phèo sống trong cái xã hội loài người nhưng không được làm người, đó chính là bi kịch lớn nhất, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Cuộc đời Chí Phèo thật bất hạnh từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành cuộc đời Chí Phèo chỉ là một con số không tròn trĩnh, không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không lấy một tấc đất cắm dùi. Hắn được một anh thả ông lươn nhặt về khi bị bỏ rơi trong một cái váy rách đụp ở một cái lò gạch cũ. Chí Phèo lớn lên trong vòng tay nuôi lớn của người dân làng Vũ Đại, đến năm 20 tuổi thì đi làm canh điện cho nhà Bá Kiến, cái tuổi 20 người ta không hoàn toàn là đá cũng không hoàn toàn là người, đây có lẽ là quãng thời gian đẹp đẽ nhất chuỗi tháng năm đau khổ. Chí Phèo biết ghét, biết khinh những cái gì gọi là dâm dục tầm thường khi mà bà ba gọi hắn vào bóp chân cho bà. Chí Phèo cũng ước mơ như bao con người bình thường khác, có một gia đình nho nhỏ chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải kha khá thì mua dăm ba sào ruộng làm vốn liếng, nhưng đời không như mơ chỉ vì một cơn ghen vô lý Bá Kiến tên gian hùm khép tiếng đã đẩy Chí Phèo vào tù tội, và cuộc đời Chí Phèo cũng ngoặt bước từ đây, hắn không còn là người dân lương thiện nữa.
Bẩy, tám năm sau khi ra tù, bộ mặt hắn giờ đây không còn mang nuốt người nữa, cái đầu thì trọc lóc, cái răng cao trắng hơn, cái mặt đen mà rất cơn cơn. Trông ghét lắm, trông gớm chết. Hắn mặc cái quần váy đen với cái áo vàng tây, ngực đầy những nét chạm trổ với hình một ông tướng cầm trùy trông gớm chết. Đây chính xác là một bộ mặt của một con vật mà như Nam Cao nhận xét “bộ mặt của một con quỷ”. Ta đau đớn thay khi một anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành nay còn đâu, mà vẳng bên tai chỉ còn lại những tiếng chửi tục tĩu. Hắn chửi tất cả làng vũ đại, chửi ai không chửi nhau với hắn, rồi cuối cùng chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nỗi như thế này trời? cũng là một nhu cầu giao tiếp nhưng tiếc thay đáp lại lời hắn chỉ là những tiếng chó sủa. Nếu có ai đáp lại hắn thì chí còn là người. Nhưng không có một ai, qua tiếng chửi ta nhận thấy thái độ thái độ phẫn uất của Chí Phèo khi phần nào nhận thức được thân phận của mình, hắn đã bị đánh tụt từ hàng người xuống hàng vật. Bị loại ra xã hội loài người càng đau thương hơn nữa khi Chí Phèo bị bá Kiến mua chuộc làm tay sai là từ đây Chí Phèo trượt dài trên con đường lưu manh hóa, hắn sống bằng máu và nước mắt của biết bao người dân vô tội. bi kịch bi cự tuyệt quyền làm người dẫn đến con đường lưu manh hóa của Chí Phèo tưởng chừng như kéo mãi đến lúc cuối đời, nhưng Nam Cao đã không như thế.
Tưởng chừng như Chí Phèo sẽ sống mãi trong trạng thái say triền miên, ăn, ngủ, hại người trong lúc say. nhưng Nam Cao đã xây dựng một điểm dừng cho nhân vật của mình thẳm sâu trong tâm hồn của con quỷ dữ của Làng Vũ Đại phần người vẫn tiềm tày chỉ đợi phát hiện và khai sáng. Và Nam Cao đã tinh tế nhận ra điểm tốt đẹp đó trong tâm hồn của một con người tưởng như không thể ngóc đầu dậy được nữa, đây cũng chính là một tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn Nam Cao mở ra cho Chí Phèo một cánh cửa thiên lương bằng cách đưa Thị Nở bước vào cuộc đời Chí Phèo rất mộc mạc, tự nhiên.
Trong một cơn say Chí Phèo đã ăn nằm với Thị Nở, nửa đêm hắn nôn mửa nên đã được Thị Nở dìu vào trong lều. Sáng hôm sau Chí Phèo tỉnh dậy lần đầu tiên hắn tỉnh rượu, lòng mơ hồ buồn như tỉnh lại sau một cơn say dài và cũng là lần đầu tiên Chí Phèo nhận thức được cuộc đời mình trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. hắn nghe được ngoài kia tiếng chim hót ríu rít, tiếng Anh thuyền chài gõ mái, tiếng mấy người đàn bà đi chợ về, những âm thanh ấy hôm nào chả có. Nhưng sao giờ đây Chí Phèo mới nhận thấy vì có khi nào hắn tỉnh để mà cảm nhận âm thanh ấy giống như tiếng sáo của đêm tình mùa xuân trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nhà văn Tô Hoài. Tiếng sáo deo rắt, đánh thức, lay động con người đã khô héo trong Mị giờ đây những âm thanh sao động này lại gợi cho Chí Phèo nhớ về một cái gì đó rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình đầm ấm để rồi phải hối tiếc khi giờ đây nhận ra mình đã đến cái dốc bên kia tuổi già, đói rét, bệnh tật, ốm đau hắn không sợ. Nhưng sợ nhất là cô độc, nhưng hắn nghĩ Thị Nở sẽ xoa lấp nỗi cô đơn ấy khi Thị Nở mang bát cháo hành tới.
Lần đầu tiên được một người đàn bà cho hắn xúc động mắt ươn ướt khi ăn bát cháo hành. Thị Nở là cầu nối đưa Chí Phèo trở về với thế giới lương thiện, nhưng cánh cửa lương thiện vừa mở ra đã đóng sập lại khi Thị Nở chửi tất cả những lời bà cô vào mặt hắn. Chí Phèo từ ngạc nhiên đến thất vọng nhưng chưa tuyệt vọng, hắn Chí Phèo chạy theo nắm lấy tay Thị Nở. Nhưng đáp lại là một cái dúi mạnh, lúc này Chí Phèo mới đau khổ, tuyệt vọng tột cùng, hắn mơ hồ nhận ra là đã làm cuộc đời mình rơi vào vực thẳm là Bá Kiến. Chí Phèo xách dao kết liễu đời Bá Kiến và cũng tự sát khi miệng vẫn nhan nhản “ai cho tao lương thiện”. Cái chết của bá Kiến như một lý tất yếu mà Nam Cao vạch ra “ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh, tức nước thì vỡ bờ”.
Không chỉ mới mẻ về nội dung, mà còn mới mẻ về hình thức nghệ thuật. Nam Cao đã thành công khi xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật một cách tỉ mỉ, tinh tế. Cách vào truyện độc đáo không theo kết cấu thời gian, mà đi theo mạch kể chuyện tự nhiên, kết hợp với đó là ngôn ngữ tự nhiên, ngôn ngữ tác giả kết hợp với ngôn ngữ nhân vật. Tất cả đã làm nên một kiệt tác của nền văn học hiện thực Việt Nam.
– Chí Phèo là một trong những truyện ngắn thành công nhất của nhà văn Nam Cao, tác phẩm có sức sống bền vững theo thời gian, neo đậu vững chắc trong lòng người đọc xuyên suốt năm tháng và là ngôi sao sáng bậc nhất trên bầu trời văn học Việt Nam.
– Tác phẩm là bản án đanh thép tố cáo một xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác và mục ruỗng đã dồn người nông dân thấp cổ bé họng vào bước đường cùng, dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật để rồi cuối cùng lại hình thành nên con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
– Đồng thời, Chí Phèo còn khắc họa thành công hình ảnh người nông dân nghèo bị bần cùng hóa bởi đói kém bám riết, bị chèn ép bởi xã hội cũ khiến cho họ phải đánh mất đi bản chất thiện lương vốn có của mình.
Đôi nét về tác giả Nam Cao và kiệt tác Chí Phèo
– Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, ông sinh năm 1917 tại huyện Lý Nhân, Hà Nam và mất vào năm 1951 tại Ninh Bình. Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX.
– Những trang văn của Nam Cao luôn chứa đựng mối quan hoài thường trực về số phận bất hạnh của những người nông dân và người tri thức nghèo bị đói kém bám riết, bị xã hội đương thời chèn ép để rồi cuối cùng lại lạc đi trên bước đường làm người.
– Ngòi bút của ông vừa sắc sảo vừa chân thực, trào phúng nhưng không thiếu phần tinh tế. Nam Cao mạnh dạn phân tích và mổ xẻ tất cả, không né tránh như Thạch Lam, không phiến diện như Vũ Trọng Phụng nhưng vẫn giữ được sự tỉnh táo trong văn chương.
– Nguyễn Minh Châu từng nhận định về văn chương của ông rằng:
”Trong các trang truyện của Nam Cao, trang nào cũng có những nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm lí, nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người.’’
– Những tác phẩm của Nam Cao luôn lột tả cho người đọc thấy được cái bản chất xấu xa của xã hội và nhân tính hủ lậu của con người đương thời.
– Bén duyên với nghiệp văn từ năm mười tám tuổi và trong suốt mười lăm năm hành nghề, ông đã để lại cho đời sau một khối lượng tác phẩm khổng lồ từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, tên tuổi Nam Cao gắn liền với những tác phẩm để đời như Sống mòn, Lão Hạc hay Đời thừa.
– Trong đó không thể không nhắc đến Chí Phèo, một truyện ngắn có sức ảnh hưởng lớn đến văn đàn Việt Nam, đây là tác phẩm đã neo đậu vững chắc trong lòng độc giả qua bao thế hệ.
– Chí Phèo ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ, xuất bản vào năm 1941 với tên Đôi lứa xứng đôi do Nhà xuất bản Đời mới – Hà Nội tự ý đổi tên. Tác phẩm về sau được Nam Cao đặt tên là Chí Phèo khi in lại trong tập Luống Cày do Hội văn hóa cứu quốc xuất bản vào năm 1946.
– Chí Phèo là một tác phẩm thể hiện rõ nét lối đi riêng biệt của Nam Cao trong sự nghiệp văn học, tập trung vào số phận của những người nghèo khổ ở quê hương.
’’Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than.”
– Tác phẩm không phải là một truyện ngắn dịu dàng lãng mạn hay cảm động lòng người, Chí Phèo là một tấm gương hiện thực đặt giữa xã hội đương thời, là bản án đanh thép tố cáo xã hội cũ và là một cái nhìn bế tắc cho những kiếp người bất hạnh.
– Chí Phèo và những tiếng kêu đau khổ thoát ra từ kiếp người lầm than
– Tác phẩm mở đầu bằng hàng loạt tiếng chửi của Chí Phèo ngay từ những dòng văn đầu tiên của truyện ngắn, Nam Cao đã để người đọc thấy được chất lưu manh trong con người Chí, ông đẩy hắn ra giữa vở kịch của cuộc đời và để hắn đối thoại với đời bằng câu chửi.
– Những tiếng chửi đó dường như mở ra một cuộc đời ảm đạm đầy chua xót của Chí Phèo, xen lẫn trong câu chửi, người ta thấy được cả sự cô độc của hắn. Không một ai đáp lại lời Chí ngoài tiếng sủa của ba con chó dữ, hắn cứ chửi trời, chửi đất và chửi cả cái đứa đã đẻ ra thằng Chí.
– Còn ai đã đẻ ra Chí Phèo thì hắn không biết, cả làng Vũ đại không ai biết, đó có lẽ là bi kịch đầu tiên của truyện, bi kịch bám riết đời Chí từ khi hắn sinh ra với thân phận một đứa trẻ mồ côi, được người ta nhặt về ở lò gạch cũ và sống lang hết nhà này đến nhà khác trong những năm tháng ấu thơ.
– Năm hai mươi tuổi, Chí Phèo đi làm canh điền cho nhà Bá Kiến, chánh tổng hội đồng kỳ hào của làng Vũ Đại. Cụ Bá là người có quyền thế lại tâm cơ, ai cũng nể sợ. Năm đó Chí Phèo ở cho nhà cụ được vợ ba của Bá Kiến thường xuyên gọi lên hầu hạ xoa bóp tay chân.
– Chính điều này đã làm nổi lên máu ghen trong lòng Bá Kiến, cụ đã giải Chí Phèo lên quan, để hắn chịu một tội nào đó được sắp đặt sẵn và đi tù tám năm, chính cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay cho bọn cường hào chèn ép những người nông dân lương thiện.
– Sau những năm tháng tù đày, Chí trở về với một bộ dạng khác, kinh tởm và gớm ghiếc. Hắn đã đánh mất đi nhân hình cùng nhân tính của mình cho thù hận, để rồi người trở về làng Vũ Đại hôm nay không còn là Chí Phèo nữa mà là một con quỷ dữ khiến ai cũng phải khiếp sợ.
“Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
– Trích đoạn miêu tả Chí Phèo.
Nam Cao khắc họa rõ nét gương mặt của Chí qua từng con chữ như phản ánh một sự thật tàn nhẫn đến đau lòng, chính những bất công cùng sự chèn ép của tầng lớp thống trị trong xã hội cũ đã đẩy một con người thiện lương vào bước đường tha hoá, khiến họ đánh mất đi nhân tính của chính mình.
Chí Phèo từ đây đã bị xã hội cự tuyệt đi quyền làm người, bị loại ra khỏi thế giới vốn dành cho loài người để rồi hắn lại tự biến mình trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại:
“Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện.” – Trích đoạn truyện ngắn Chí Phèo.
Ai gặp Chí cũng khiếp sợ và tìm cách lảng tránh, giữa thời buổi loạn lạc đói kém chẳng ai muốn có thêm cho mình một mối phiền phức:
”Ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua.”
Cuộc đời của Chí Phèo trượt dài trong bi kịch, nhuốm đầy bất hạnh và khổ đau. Đời hắn bây giờ không có gì ngoài những tiếng chửi, rượu và vài miếng thịt sống qua ngày, chẳng ai còn được thấy hình ảnh anh Chí hiền như đất khi xưa nữa, thay vào đó là con quỷ gớm ghiếc mà ai cũng xa lánh.
Vậy mà Bá Kiến đã lợi dụng được con quỷ trong con người Chí Phèo để khiến nó làm việc cho cụ, bằng những lời dụ dỗ ngon ngọt cùng đôi đồng bạc lẻ, Bá Kiến đã thành công trong việc thu Chí về làm tay chân cho mình để hắn đi đòi nợ, đâm thuê chém mướn vào những lúc cần.
Người ta gọi Chí Phèo là quỷ nhưng chính tầng lớp thống trị cũng như bọn cường hào đương thời mới thực sự là quỷ dữ. Chúng đã ăn mòn đi những mơ ước bình dị, những điều tốt đẹp trong con người của một người nông dân.
Chí Phèo có chăng cũng chỉ là nạn nhân của thời cuộc, của những tội ác mục ruỗng thối nát chất chồng hết lớp này đến lớp khác.
Ánh sáng lương tâm một lần nữa phát sáng nhưng cũng bị hiện thực tàn khốc dập tắt
Trong tận cùng của bế tắc, khi Chí Phèo đã hoàn toàn đánh mất phần người của mình và chỉ còn lại phần con, Nam Cao vẫn nhìn thấy ở đâu đó trong thâm tâm hắn vẫn còn khát khao được yêu thương, mơ ước một lần nữa được hòa nhập lại với thế giới, được sống như một con người thực sự.
Vậy nên ông đã cho Thị Nở, một người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn xuất hiện để khơi dậy phần người trong sâu thẳm của Chí Phèo.
“Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công; nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má hóp vào mới thật là tai hại, nếu má phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi; có lẽ vì cố qua quá cho nên chúng nứt nở như rạn rạ. Đã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bôi cho dày thêm một lần, cũng may chất trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách.”
– Trích đoạn miêu tả Thị Nở.
Chính đêm ăn nằm như vợ chồng ấy cùng những ngày tháng ở bên Thị, bên bát cháo hành nghi ngút khói đã khiến Chí như thức tỉnh khỏi giấc mộng tăm tối của đời mình.
Sau những ngày tháng bị hắt hủi và miệt thị bởi số đông loài người ngoài kia, Thị Nở là người đầu tiên khiến Chí Phèo cảm nhận được sự yêu thương, giúp hắn nhìn ra được cuộc đời vẫn còn ý nghĩa.
Sự xuất hiện của Thị Nở là một bước ngoặt độc đáo đầy tính nhân văn của Chí Phèo, Nam Cao xây dựng Thị là một con người xấu xí không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật lên nội tâm đầy tình thương của Nở.
Chính Thị đã nhìn ra một con người khác của Chí Phèo mà không ai trong làng Vũ Đại có thể thấy được, như cách lời văn của Nam cao đã miêu tả.
”Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người.”
Những tưởng cuộc sống của Chí đã khởi sắc sau ngày gặp Thị và từ đây hắn có thể quay trở về trên con đường làm người nhưng tất cả đã vỡ nát ngay sau khi bà cô của Thị Nở xuất hiện.
Nhân vật bà cô là điển hình cho hình tượng người nông dân sống ở làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám, đó là một xã hội tha hóa về mọi mặt, từ quyền lực đến cả nhân cách của con người.
Sống giữa thời kỳ loạn lạc ấy khiến người ta quẩn quanh bế tắc trong sự nghèo đói, làm họ trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn hơn với chính mình và cả những người xung quanh.
Cái định kiến hẹp hòi về xuất thân, nguồn gốc và quá khứ có sức ảnh hưởng ghê gớm đến suy nghĩ của con người, chính những định kiến đó đã dựng nên một bức tường cách trở Chí Phèo với thế giới loài người.
Kể cả khi Chí được Thị Nở tái sinh bằng tình yêu khiến hắn thèm làm người, khát khao được hòa nhập với mọi người đến thế nào thì cũng không thể vượt qua được bức tường ấy.
Bằng một câu nói, bà cô trong tác phẩm đã dập tắt đi tất cả hy vọng của Chí Phèo, khiến hắn rơi vào vực sâu tuyệt vọng, mất đi hoàn toàn tư cách được làm người.
“Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ.” – Câu nói của bà cô trong truyện ngắn.
Để rồi cuối cùng, Chí Phèo đã đi gặp Bá Kiến để đòi lại lương thiện, thứ mà mỗi con người sinh ra đều mang sẵn trong người. Bi thảm thay những kiếp người đã đánh mất đi nhân tính của mình vào nghèo đói và tay bọn cường hào.
”Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa.” – Câu chất vấn đầy ám ảnh của Chí Phèo.
Chí Phèo giết Bá Kiến và cũng kết liễu đời mình, đó có lẽ là sự giải thoát cho Chí khỏi cuộc đời tăm tối, khổ đau cùng bất hạnh. Cái chết của hai nhân vật mang nhiều tầng ý nghĩa mà Nam Cao đã gửi gắm.
Nó vừa tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát đã bức người nông dân đến cùng đường tuyệt lộ, vừa nêu lên ý thức phản kháng của tầng lớp thấp, dù cho sự phản kháng này là đơn độc và liều lĩnh.
Bá Kiến chết trong những tội lỗi mà hắn gây ra, còn Chí Phèo chết trong thân xác một người cố nông đáng thương lại đáng trách, đến lúc gục xuống bên vũng máu của mình vẫn chưa đòi lại được sự lương thiện.
Nhưng chưa dừng lại ở đấy, bi kịch lại càng tiếp nối bi kịch khi Thị Nở bỗng nhớ đến đêm ăn nằm với Chí Phèo và nhìn xuống bụng của mình, rồi nghĩ:
– Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào?
Câu hỏi của Thị không có lời hồi đáp, nó như một chuỗi bi kịch không cách nào kết thúc. Để rồi mai đây vẫn nơi lò gạch cũ ấy, một Chí Phèo con lại ra đời và cũng là lúc một con quỷ nữa được hình thành.
Chí Phèo là vàng được đãi trên dòng sông hiện thực
Người nông dân nghèo luôn là chủ đề mà các nhà văn đương thời hướng ngòi bút đến, tuy nhiên Nam Cao vẫn để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả qua lối văn riêng biệt của mình, với ông:
’’Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có…’’
Vì vậy có thể nói Chí Phèo chính là vàng được đãi từ dòng sông hiện thực đã qua tay bao nhà văn đi trước, tuy nhiên tác phẩm không vì thế mà đi theo khuôn mòn của chủ đề người nông dẫn mà đã đột phá theo cách riêng để trở thành một kiệt tác.
Chính điều đó đã giúp cho tác phẩm trở thành một áng văn chương bất hủ neo đậu vững chắc trong lòng người đọc muôn đời.
Hình ảnh Chí Phèo đã vượt ra khỏi những trang văn, chạm vào đời sống con người và tái hiện lại cho chúng ta thấy một hiện thực tàn khốc do xã hội đương thời gây nên và đã trở thành một áng văn điển hình.
Tác phẩm chính là giọng nói riêng của Nam Cao, một chất giọng tàn nhẫn chua chát nhưng ẩn sâu bên trong là sự ấm nóng của tình thương mà không tìm được ở bất kỳ nhà văn nào khác.
Không dừng lại ở đó, Chí Phèo còn kết hợp với hai tác phẩm lớn của Nam Cao là Lão Hạc và Sống mòn để chuyển thể thành phim lấy tên là Làng Vũ Đại ngày ấy, bộ phim đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả cả nước trong suốt một thời gian dài.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào bản tính lương thiện của con người, đồng thời cũng khẳng định rõ ràng một điều rằng nghệ thuật không phải ánh trăng lừa dối, nghệ thuật là tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp người lầm than.
Chí Phèo chính là con diều lớn nhờ ngọn gió hiện thực mà bay cao, bay xa trên bầu trời văn học, trở thành một điểm sáng nổi bật giữa văn đàn Việt Nam.
Phê bình : Nỗi đau Chí Phèo
Nghiên cứu phần văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945. Đặc biệt dòng văn học hiện thực phê phán chúng ta gặp Nam Cao- một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước năm 1945. Sáng tác của ông tập trung vào hai đề tài lớn: đề tài nông dân và đề tài tiểu tư sản nghèo. “ Chí Phèo” ((1941) là tác phẩm nổi bật trong sáng tác của Nam Cao về đề tài nông dân với bút pháp hiện thực xuất sắc và cảm hứng nhân đạo cao cả.
Tác phẩm “Chí Phèo” là một kiệt tác của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ở đó Nam Cao đã thể hiện được nỗi đau Chí Phèo mang tính điển hình, tính phổ biến. Ở đó vang lên tiếng nức nở của con người không được quyền làm người. Đề tài quen thuộc nhưng vấn đề Nam Cao đặt ra rất mới, rất trẻ. Nỗi đau đó nó vẫn còn có ý nghĩa đối với hôm qua, hôm nay và cho cả ngày mai, vẫn còn nỗi đau tùy cấp độ khác nhau. Và đây là một vấn đề then chốt của văn học lớn mọi thời đại. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: NỖI ĐAU CHÍ PHÈO”
– Nam cao sinh năm 1917 và mất năm 1951.
– Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri- là nhà văn có vị trí hàng đầu trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Là một trong những đại diện xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước 1945. Nam Cao cũng là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của chặng đường nền văn học mới sau 1945.
Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính: Cuộc sống người trí thức nghèo và cuộc sống người nông dân. Ở đề tài trí thức tư sản nghèo, đáng chú ý nhất là các truyện ngắn: “ Những truyện không muốn viết”, “Trăng sáng”, “ Đời thừa”, “ Cười” Nước mắt”, “Mua nhà”…và tiểu thuyết “ Sống mòn”. Trong khi miêu tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, bế tắc của những nhà văn nghèo, “ Giáo khổ trường tư”, học sinh thất nghiệp…Nam cao đã làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần của họ. Những con người có ý thức sâu sắc về sự sống, muốn sống có hoài bão, phát triển nhân cách nhưng cứ bị gánh nặng cơm áo hàng ngày làm cho “ chết mòn “ về tâm hồn.
– Trong đề tài nông dân đáng chú ý nhất là các truyện: “ Chí Phèo”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “ Mua danh”, “ Tư cách mỏ”, “ Điếu văn”, “Một bữa no”, “Lão Hạc”, “ Một đám cưới”, “ Dì Hảo”, “ Nửa đêm”, …Ở một số truyện viết về người nông dân lưu manh hóa, nhà văn kết án sâu sắc cái xã hội tàn bạo đã hủy diệt cả nhân tính của những con người vốn bản tính lương thiện đó.
– Sau năm 1945 Nam Cao sáng tác để phục vụ công cuộc kháng chiến. truyện ngắn: “ Đôi mắt”( 1948), “ Nhật ký ở rừng” (1949) và tập bút ký “ Chuyện biên giới”( 1950). Đó là những sáng tác đặc sắc nhất của nền văn học sau 1945 còn rất non trẻ khi đó. Nam Cao còn là cây bút có cái gốc nhân đạo rất sâu và là một tài năng độc đáo bậc thầy. Nam Cao xứng đáng được coi là một nhà văn lớn. “Chí Phèo” và nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết của ông thuộc vào những sáng tác đặc sắc nhất của văn xuôi Viêt Nam.
– Nam Cao là nhà văn hiện thực mà những trang viết phản ánh sâu sắc bộ mặt của xã hội thời kỳ 1939-1945. Xã hội Việt Nam sau những năm dài nô lệ như dồn tụ lại những thảm họa đen tối nhất vào những năm tháng này. Chiến tranh thế giới thứ hai lan tràn đến xứ thuộc địa nghèo khổ, đã bị vơ vét đến kiệt sức từ hàng trăm năm nay. Nông thôn xơ xác như bị tàn phá sau một cơn bão lớn. Người dân thành thị điêu đứng trước nạn thất nghiệp, chợ đen. Đời sống tinh thần của xã hội như một vũng bùn tù đọng, đầy rẫy những tư tưởng nô dịch. Cơ thể xã hội đang lên cơn sốt để chờ ngày lột xác.
– Nhà văn Nam Cao xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, lại ở một vùng quê bị bọn cường hào ác bá chia bè kéo cánh, đục khoét bóc lột người dân. Nam Cao am hiểu thấm thía số phận của những người nông dân nghèo khổ. Lúc Nam Cao bước vào con đường văn học cũng là lúc xã hội Việt Nam chao đảo, ngột ngạt và bế tắc. Các giai cấp bị phân hóa dữ dội. Đời sống của người nông dân bị đe dọa hơn bao giờ hết. Ông cũng thấm thía sâu sắc cuộc sống của tầng lớp tiểu tư sản. Bản thân nhà văn đã từng là “ giáo khổ trường tư”. Nhà văn nghèo bất đắc chí “phải bán dần sự sống cho mình khỏi chết đói”. Con người Nam Cao có những nét ẩn: về bên ngoài nhạt nhẽo khó gần nhưng bên trong rất mãnh liệt. Tính cách này giúp ta hiểu được tính cánh nhân vật trong văn chương. Anh trí thức thường băn khoăn, nhăn nhó, vất vả. Nam Cao sống rất giàu tình thương. Tình thương của Nam Cao là tình thương của người trong cuộc, của kẻ cùng kiếp. Kiếp của Nam cao là kiếp của Dần, của Hộ, của Lão Hạc, của Điền…tác phẩm của Nam Cao giàu tính chân thực trong tự thú và triết lý. Truyện Nam cao mang sắc màu trầm tư suy tưởng trong cảm hứng sáng tạo cũng như trong nghệ thuật phô diễn. Phong cách truyện như thế được cắt nghĩa với nhiều lý do chính ở trong sâu xa. Tính cách của Nam Cao có nhiều nét đối lập. Nam Cao có tài nhưng vất vả.
– Những trang viết của ông bộc lộ rõ một cách nhìn đời sâu sắc, thấm thía và chua xót. Từ những nét bao quát chung đến những cảnh đời cụ thể .Nam Cao đã phác họa nhiều bức tranh đậm nét chất chứa biết bao yêu thương căm giận, xót xa. Sự kết hợp chặt chẽ giữa tinh thần phê phán mặt trái xã hội với lòng yêu thương những người nghèo khổ, giữa xu hướng miêu tả cuộc sống khách quan với tính chất tự biểu hiện giữa dòng kể và mạch vận động tâm lý, là những đặc điểm khá phổ biến trong tác phẩm Nam Cao. Điểm xuất phát của Nam Cao là cuộc đời cụ thể. Từ một làng quê nơi chôn rau cắt rốn Nam Cao đã ghi chép chắt chiu tư liệu, đào sâu vào những mảng sống để khái quát lên bức tranh về nông thôn Việt nam thời kỳ thế giới đại chiến. Làng quê Việt Nam trong tác phẩm của Nam Cao không còn vẻ yên tĩnh lâu đời mà đang bị xáo trộn dữ dội. Bọn quan lại tay sai ra sức áp bức bóc lột, trộm cướp hoành hành khắp nơi. Các tệ nan xã hội đầy rẫy khắp nơi. Nạn đói đe dọa thường xuyên. Nam Cao đã khắc họa được nhiều bức tranh chân thực. Tác giả không thi vị cuộc sống ở nông thôn mà lấy sự thực làm tiêu chuẩn và chân lý sáng tác nghệ thuật. Nam Cao khá nhạy cảm ghi nhận những diễn biến ngày một xấu đi của cuộc sống. Tuy nhiên trên những trang viết của tác giả thì cảm hứng xót xa chua chát về cuộc đời không khỏi có lúc gây ấn tượng nặng nề bi đát.
– Từ cuộc đời riêng của một thầy giáo nghèo, một nhà văn vất vả vật lộn với nghề nghiệp, Nam Cao đã suy nghĩ, chiêm nghiệm để nêu lên những vấn đề chung của tầng lớp tiểu tư sản trí thức nghèo. Trong văn xuôi cũng rất hiếm có những trường hợp mà những chất liệu quen thuộc lại có khả năng trở thành đề tài và vấn đề chung trong nhiều sáng tác rộng rãi. Và nhà văn say mê khai thác trong suốt cuộc đời mình. Nam Cao đã luôn có ý thức khách quan hóa những cái riêng để qua từng tâm lý, từng sự việc tìm được đường dây liên lạc với cuộc đời chung. Những trang viết về nông thôn bộc lộ chủ yếu là những hoàn cảnh và tính cách chân thực điển hình. Sự thật phủ phàng đó cũng là đóng góp mới của Nam Cao qua chủ đề nông thôn. Bên cạnh những chủ đề quen thuộc về số phận cực khổ của người nông dân đưới chế độ thực dân phong kiến. Nam Cao đặt một vấn đề mới: tình trạng cùng cực làm biến chất, biến dạng nhiều người nông dân. Người cùng dân trong giai đoạn này đã bị đẩy quá “bước đường cùng” của cuộc sống con người. Bên cạnh anh Pha, chị Dậu…, các điển hình quen thuộc về người nông dân. Nam Cao đóng góp thêm một chân dung mới: Chí Phèo. Khi “ Tắt đèn” của Ngô tất Tố và “ Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan ra đời, ít ai nghĩ rằng thân phận người nông dân lại có một nỗi khổ nào hơn nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha nhưng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao thì người ta liền nhận ra rằng: đây mới là hiện thân đầy đủ của những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người nông dân cùng ở một nước thuộc địa bị chà đạp, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán chó , bán con và bán sữa…nhưng chị còn được gọi là người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo, cả linh hồn mình đi, trở thành con quỹ của làng Vũ Đại “ Chí Phèo là cột mốc cuối cùng đi tới các số phận” ( Hà Minh Đức).
– Với hình tượng Chí Phèo đã đưa giá trị của tác phẩm cùng tên trở thành một kiệt tác trong nền văn xuôi đương thời. Tác phẩm “ Chí Phèo” là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn lớn Nam Cao. Chí Phèo không phải là một hiện tượng đơn độc cá biệt mà mang ý nghĩa tiêu biểu cho một lớp người, một tình trạng xã hội.Trên dốc trượt của cuộc đời xuống đáy xã hội và bị rơi vào vũng bùn tội lỗi mà Chí Phèo là người trôi xa nhất.Nỗi khổ của Chí Phèo đau nhất là nỗi khỗ bị tước quyền làm người.
– Chí Phèo sinh ra không cha, không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, không tấc đất cắm dùi. Cả đời Chí không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở. Thị ra đời trong một cái “ lò gạch cũ” bỏ hoang. Trong chiếc váy đụp. Tuổi thơ của Thị “bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ” đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà giàu…Đó là cuộc đời khốn khổ của một kẻ “ cùng hơn cả dân cùng” ở nông thôn thời bấy giờ.Nhưng nỗi khổ ghê gớm của Chí Phèo được ngòi bút của Nam Cao tập trung thể hiện không phải ở những vấn đề đó mà là vấn đề bị cự tuyệt quyền làm người. Người nông dân “cùng hơn cả dân cùng ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình mà anh đã bị xã hội cướp đi bộ mặt cùng linh hồn để trở thành một con thú dữ và bị xã hội loài người chối bỏ.
– Là con người lẽ ra được lao động,được mơ ước , được quyền yêu thương, được sống giữa cộng đồng của anh trong làng Vũ Đại. Nỗi đau này mang tính điển hình, tính phổ biến. Rền vang tiếng nức nở của con người không được quyền làm người. Nam Cao đã thể hiện nỗi đau đó bằng nghệ thuật . Mở đầu tác phẩm là miêu tả tiếng chửi của Chí Phèo: “ Hắn vừa đi vừa chửi…bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”,”hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi có trường độ và cường độ, tiếng chửi rất triệt để, ngoa ngoắt và độc địa làm sao! Từ tiếng chửi ta bắt gặp nỗi căm uất, sự vật vã tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại mà không thể được . Chí Phèo thật cô đơn. Nỗi cô đơn này càng triệt để bao nhiêu, càng đau bấy nhiêu.Trong cơn say đến mất cả lý trí, con người khốn khổ ấy vẫn cảm nhận được “ nông nỗi” của thân phận mình. Đó là nỗi cô đơn khủng khiếp của một con người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không được coi là người.Hắn thèm được người ta chửi. Vì chửi dù sao cũng là một hình thức giao tiếp đối thoại. Chửi lại hắn tức là còn thừa nhận hắn là người.Nhưng hắn cứ chửi, xung quanh vẫn cứ “im lặng đáng sợ”. Và Chí Phèo vẫn chỉ có một mình trong sa mạc cô đơn. Dẫu rằng anh đang đứng ở trên đời, giữa làng Vũ Đại. Nam Cao thật tuyệt vời khái quát tâm trạng cô đơn tột đỉnh của Chí Phèo qua tiếng chửi. Tất cả đã trở nên thù hằn, đối nghịch với Chí Phèo.
– Thực ra đâu phải Chí Phèo vốn là kẻ lưu manh nát rượu. Khi còn trai trẻ anh canh điền nhà Bá Kiến ấy đã “ ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Tức là mơ ước cuộc sống hạnh phúc bình dị bằng lao động. Khi ấy tuy còn rất trẻ nhưng anh vẫn phân biệt được tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa. Bị gọi lên bóp chân cho cái bà ba “ quỷ quái”, anh chỉ “thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất lương thiện, trong trắng ấy của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào cáo già vì ghen tuông vu vơ đã cho giải Chí lên huyện rồi sau đó phải ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay cho lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện vô tội để sau đó thả ra một Chí Phèo hung ác lưu manh. Tức là đã biến một người lao động lương thiện thành một con thú dữ. Trở về làng Vũ Đại có bọn cường hào độc ác ăn thịt người không tanh đó,Chí Phèo không thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Trong cái xã hội tàn bạo ấy càng hiền lành, nhịn nhục thì được thì càng bị đạp dúi xuống không ngóc đầu lên được. hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ. Muốn thế phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn luôn say. Và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chính xã hội ấy đã vằm nát bộ mặt người,cướp đi linh hồn người của anh. Trở về làng lần này, Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người, là “ con quỷ của làng Vũ Đại”. Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nữa. Ai cũng tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua.
– Chí Phèo tiêu biểu cho tầng lớp nông dân bị tha hóa về mặt nhân cách. Nhưng sự tha hóa đó không phải là bẩm sinh mà là nó được phát sinh trong quá trình vận động và phát triển của nhân vật giữa xã hội thối nát, vô nhân đạo. Từ một người hiền lành chất phác trở thành một kẻ liều lĩnh và ôm ấp trong lòng một mối hận thù không gì xóa được. Nếu lấy thời điểm Chí ra tù làm mốc thì có thể nói. Chí đã ba lần đi gặp kẻ thù- Bá Kiến:
– Lần thứ nhất là lúc Chí vừa ở tù về. “ Hắn về hôm trước,hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu và trong cơn say khướt, đã xách vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục ra mà chửi. Đó là lối hành động của một tên lưu manh.Nhưng hoàn toàn không ngẫu nhiên vô thức của một kẻ say rượu, mà đã có trong tiềm thức của Chí Phèo. Cộng thêm những năm tháng tù đày. Mối thù ấy càng được hun đúc nuôi dưỡng sâu sắc và cô đậm hơn. Bao năm ngồi tù Chí đã có dịp nghiền ngẫm cân nhắc trước khi đi đến hành động đúng đắn. cho nên hơn bao giờ hết, vừa rời khỏi nhà tù là Chí đã sôi sục một ý thức trả thù.Sự căm thù kẻ đã gây ra tội lỗi và đẩy mình vào con đường đau khổ đã dẫn đường Chí đến nhà cụ Bá dù là đang trong cơn say khướt. Hành vi của Chí hoàn toàn liều lĩnh và mang tính bột phát. Hơn nữa dù gì trong sâu xa bản chất của Chí cũng chỉ là một nông dân thật thà đến mức gần như ngây thơ cho nên sự thất bại của Chí trong lần đối đầu đầu tiên là một chuyện rất hiển nhiên. Làm sao qua được kẻ khôn róc đời như Bá Kiến. Bá Kiến là kẻ tinh ma xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế nên đối phó với Chí chẳng lấy gì là khó khăn. Chỉ thoáng nhìn qua là Bá Kiến đã hiểu được ý đồ của đối phương. Nên Chí mới thất bại ê chề, cay đắng trước những lời vuốt ve ngon ngọt, cộng thêm vài đồng bạc đã làm lóa mắt Chí. Từ một vị trí là người đi hỏi tội kẻ thù, chỉ thoắt cái, ván cờ đã lật ngược: kẻ có tội lại ung dung như một kẻ ra ơn còn người hỏi tội lại thành tay sai phục dịch cho kẻ thù mà không hay biết.
– Lần thứ hai: cũng trong cái dáng điệu say mềm Chí ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến gặp hắn để xin được đi ở tù. Thật là một chuyện ngược đời. Thuở nay chưa thấy ai làm một chuyện phi lý đến mức như vậy, chắc chỉ có Chí Phèo.. Tuy là nghịch lý đấy nhưng lại phản ánh đúng thực tại của Chí. Không có cơm ăn, áo mặc, một mảnh đất căm dùi cũng không. Cảnh ngộ bi đát của Chí cũng phần nào phản ánh đúng hiện trạng xã hội lúc bấy giờ . Đó là những người lầm đường lạc lối trót sa chân vào vũng bùn của tội lỗi thì không sao rút chân ra được. Chí bị tù đến khi được trả về cuộc sống đời thường thì lại không tìm được kế sinh nhai.Hay nói đúng hơn là không được tiếp nhận và vì thế là tiếp tục bị đẩy vào bước đường cùng. Hãy lắng nghe Chí nói với Bá Kiến: ‘ bẩm quả đi ở tù sướng quá đi! Ở tù còn có cơm ăn, bây giờ về làng, về nước một thước đất cắm dùi không có…” Sự thật như thế ư? Nhà tù là chốn dung thân ư? Trên câu chữ thì ta không thể nghĩ khác được. Nhưng nếu nghĩ sâu xa một chút, ta mới thấy ngỡ ngàng và đau xót. Nhà tù nuôi con người ư? Không, bảo nó nuôi dưỡng những con người bị tha hóa, những con quỹ như Chí Phèo thì đúng hơn. Nếu như ý nghĩa của nhà tù là để cảnh tỉnh, cải tạo con người, trả con người về với cuộc sống hoàn lương thì nhà tù ở đây lại thực hiện ngược lại.Nó biến những con người lương thiện trở thành loại người lưu manh, khốn nạn. Cũng như lần trước Chí lại thất bại trước cái khôn róc đời của cụ Bá. Chí bị gạt mà không hề nhận ra. Âm mưu của Bá Kiến mới thâm độc làm sao. “dùng độc trị độc”, dùng Chí Phèo để trị đội Tảo. cả Chí và đội Tảo đều là kẻ thù của hắn, nên vả chăng có xảy ra xô xát, ai được ai mất cụ Bá nhà ta đều có lợi, vừa thỏa mãn được ý định trả thù, vừa không phải mang tiếng là kẻ thù nhỏ nhen đê tiện.
– Lần thứ ba: cũng là lần chót Chí đến gặp Bá Kiến. Cũng với dáng dấp của một thằng say rượu nhưng lần này Chí mang trong mình một tâm trạng, một ý định khác hẳn với những lần trước.Bởi vì Chí Phèo sau khi bị Thị Nở cự tuyệt tình cảm của mình, Chí hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng. Chí chỉ ước ao trở lại làm anh dân cày bình thường với mối tình Thị Nở- Một người đàn bà không thể có người khác xấu hơn. Vậy mà không được. Cuộc đời hoàn lương của Chí bị xã hội quay lưng. Cánh cổng cuộc đời khép lại trước mặt Chí, đã chặn đứng đường trở về của Chí, đã cự tuyệt quyền làm người của một con người. Cuộc đời tàn nhẫn chối bỏ Chí. Vĩnh viễn Chí không tìm thấy hạnh phúc ở cuộc đời này. Bản chất người vừa phục thiện trỗi dậy lại bị đè bẹp không thương tiếc. có thể nói đây là những giờ phút tỉnh táo nhất trong quảng đời say khướt của Chí. Những phút mà ý thức phản kháng trỗi dậy. Đi gần hết cuộc đời, cho đến lúc này Chí mới phát hiện, mới nhận ra chân lý cuộc sống. Dù là muộn màng nhưng với Chí sự khám phá ấy quý giá biết bao. Và Chí quyết giữ chặt lấy nó không để nó tuột khỏi tầm tay dù là phải trả mọt giá rất đắt. Chí như vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài. Một sự chuyển biến rất lớn đang diễn ra trong tâm hồn của Chí. Ấy là sự trỗi dậy của tính người, tính lương thiện. Chí đã nhận ra chân tướng kẻ thù. Kẻ ấy là Bá Kiến chứ không ai khác, cho nên lẽ ra phải đến nhà Thị Nở thì tiềm thức sâu xa đã dẫn Chí đến nhà Bá Kiến “ Một tính cách thật độc đáo, vừa là một gã mất trí,một công cụ trong tay bọn thống trị, vừa là người nô lệ thức tỉnh.Một đầu óc sáng suốt nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có ý nghĩa khát quát sâu sắc, vượt ra ngoài tầm khôn ngoan lọc lỏi của Bá Kiến: “ Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?”. “Một nhân vật như thế chỉ có thể là của Nam Cao”( Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh-Chân dung văn học).
– Trong lần đối đầu sau cuối này, Chí hoàn toàn lột xác. Sự thay đổi đột ngột và nhanh chóng đến mức Bá Kiến không ngờ được. Chính vì không nắm bắt được đối phương, lại “ chủ quan khinh địch” nên Bá Kiến đã thất bại thảm hại. Hắn đã phải trả một giá rất đắt cho hành vi tội lỗi của chính hắn. Với dáng dấp hiên ngang ngạo nghễ,Chí chỉ tay vào mặt Bá Kiến mà ra lời dõng dạc: “ Tao muốn làm người lượng thiện”. Tư thế ấy ta chưa từng bắt gặp ở Chí. Trước đây hắn chỉ biết cúi đầu lế phép “ một điều bẩm cụ, hai điều lạy cụ”. Đó là sự chuyển biến và sự khẳng định mình của Chí.Ngôn ngữ của Chí càng lúc càng đậm màu sắc triết lý: “ Ai cho tao lương thiện? tao không thể là người lương thiện”. Lời cuối cùng được thốt lên với tất cả niềm cay đắng xót xa. Chí đã bị đẩy đến bước đường cùng. Cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở cho Chí thì đã bị đóng sầm lại.Chí đau đớn tuyệt vọng. Không còn lối thoát, không còn cách nào khác là kết án kẻ thù, giết chết Bá Kiến. sau đó anh tự sát. Anh không muốn sống nữa, vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về. anh không thể sống kiểu lưu manh, không thể sống như thú vật nữa. Bởi vì lòng thương người của Thị Nở, chỉ một chút thôi đã đủ kéo Chí trở về cuộc sống làm người. “ Anh đã bâng khuâng mơ hồ buồn”. Anh đã nghe được âm thanh của cuộc đời: bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đàn bà đi chợ về …Những âm thanh bình thường quen thuộc ấy bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Cuộc gặp gỡ Thị Nở lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tối tăm mịt mù của anh. Anh bỗng nhận ra tất cả tình trạng bi đát của số phận mình. Anh bỗng thấy “ Thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Tức là anh vô cùng khao khát được mọi người nhận anh trở lại “vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Tình yêu của Thị Nở mở đường trở lại làm người. Nhưng con đường đó vừa được hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô của Thị Nở không cho phép cháu bà” đi lấy một thằng (…) chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ” . Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Tất cả quen coi anh là “quỹ dữ”mất rồi. Hôm nay linh hồn anh trở về nhưng không ai nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch đau đớn khi hiểu ra rằng xã hội đã cự tuyệt mình. Vậy thì anh phải chết! Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa đời phũ phàng đóng chặt trước mặt anh. Chí Phèo chết quằn quại trên vũng máu tươi của mình, chết trong niềm uất hận và đau thương lớn lao. Vì niềm khao khát mãnh liệt, thiêng liêng của anh là được sống làm người không thực hiện được. Chí Phèo khổ quá, cô đơn quá! Khi chết mọi người chỉ đứng nhìn, kể cả người vợ đã từng chung sống năm ngày cùng chỉ đứng nhìn mà thôi. Tình người đâu? Làm thế nào để con người sống được cuộc sống con người, trong cái xã hội ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy. Qua hình tượng Chí Phèo ngòi bút nhân đạo Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Đó là một vấn đề có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa triết học có tầm vóc lớn lao được đặt ra bằng một tài năng xuất sắc bậc thầy khiến cho “ Chí Phèo”Thuộc vào một trong những tác phẩm hay nhất, có giá trị nhất của văn học thế kỷ này.
– Tác phẩm “Chí Phèo” đã để lại trong lòng người bao trăn trở, bao suy tư ray rứt. Truyện đã phác họa thành công bức tranh về đời sống ở nông thôn Việt Nam thời kỳ 1930-1945. Nó đã trình bày sự mâu thuẫn và xung đột gay gắt giữa bọn cường hào ác bá và những người nông dân nghèo hèn rách rưới bị đẩy vào con đường tội lỗi mà tiêu biểu là NỖI ĐAU CỦA CHÍ PHÈO. Những mâu thuẫn nội tại ấy đã cho thấy sự xấu xa thối nát của xã hội đương thời. Hơn bao giờ hết, bức tranh nông thôn Việt Nam hiện ra mới xơ xác tiêu điều làm sao! Nó đầy rẫy những bọn người hèn hạ đốn mạt ( Bá Kiến. Bà Ba , đội Tảo…) Cũng như những tệ nạn xã hội: rượu chè, cờ bạc , trộm cướp…có thời cơ phát triển. Một xã hội không chỉ có sự bần cùng hóa mà còn có cả sự lưu manh hóa. Về điểm này tác giả xây dựng rất thành công chân dung của một người nông dân mới: Chí Phèo. Hình ảnh Chí trở thành một điển hình văn học. Một kiểu mẫu của loại người bị tha hóa về mặt nhân cách, vừa sống động vừa độc đáo mới mẻ. Cũng qua đó bật lên tiếng lòng nhân đạo cao cả. Một sự cảm thông, một thái độ trân trọng sâu sắc đối với số phận của người nông dân cùng bị xã hội chà đạp, ruồng rẫy, chối bỏ thậm chí tước bỏ cả quyền làm người. Những kẻ mà xã hội cho là cực kỳ xấu xa ấy, dưới con mắt yêu thương của tác giả vẫn còn một chút gì là tình người. Tình người và sự phản kháng muốn chống lại xã hội, muốn bứt ra khỏi cái xã hội vô nhân đạo, không có một chút tình người. Toát lên từ tác phẩm là niềm khát khao hạnh phúc, khát khao quyền làm người. Đặc biệt là tiếng kêu trước lúc giãy chết của Chí Phèo. Đó là tiếng kêu cứu của một con người. Một số phận bị vùi dập “Ai cho tao lương thiện? Tao muốn làm người lương thiện”. Tiếng kêu mới đau đớn và tha thiết làm sao! Nó cứ xoáy vào lòng người. Nó làm ta băn khoăn, ray rứt không nguôi. Nó kêu gọi hay nói đúng hơn là nó đặt ra một vấn đề cấp thiết. Một vấn đề chung không của riêng ai: ấy là “ số phận con người”. Nó kêu gọi tình người, kêu gọi sự quan tâm đến những kẻ bất hạnh. Kêu cứu vấn đề nhân phẩm con người đang trên đường bị hủy hoại. Nó đặt ra nhiệm vụ nóng bỏng của thời đại là hãy cứu lấy nhân phẩm, hãy bảo vệ quyền làm người của một con người.
– Tác phẩm có giá trị tố cáo xã hôi vô nhân đạo.Con người không thể nào sống nổi với nó. Cùng quẫn, bế tắc cảnh ao tù nước đọng.Chí Phèo này chết đi, có Chí Phèo con ra đời thay thế. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm miêu tả Thị Nở “ Thị thoáng thấy hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, vắng người qua lại”. Phải chăng tác giả kín đáo báo hiệu một Chí Phèo con sắp sửa ra đời. Có người cho rằng đó là kết thúc bi quan. Tại sao không nghĩ rằng, Nam Cao đang kêu gọi chúng ta hãy cứu lấy những đứa con của Chí Phèo. Hãy đập nát lò gạch cũ để con người sống với nhau trong sáng hơn, cao đẹp hơn!
Viết về nỗi đau đó thật vô cùng ý nghĩa cho cả hôm qua, hôm nay và mai sau, tùy cấp độ khác nhau nhưng nỗi đau vẫn còn. Tác phẩm của Nam cao vì thế vẫn còn rất mới và mãi mãi trường tồn với thời gian.
– Tác phẩm của Nam Cao ghi lại những chuyện đời thường nhưng sao lại có sức gắn đến thế với cả cuộc đời rộng lớn. Cái tiếng thì thầm của tác phẩm lại có sức ám ảnh đến đối với nhiều lớp người trong hành trình cuộc đời. Giữa bao thăng trầm của lịch sử, truyện của Nam Cao là một đối tượng đầy hấp dẫn mà mỗi lúc nghĩ đến là gợi cả một bức tranh đời. Cả một tiểu vũ trụ nhân gian với bao màu sắc vừa hài hòa vừa tương phản.
– Nhà văn Nam Cao tuy không phải là nhà văn đầu tiên của dòng văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930-1945. Đã có biết bao cây bút nổi danh. Nhưng Nam Cao đã vươn tới đỉnh cao bởi vì Nam Cao có một phong cách riêng, không lẫn với ai được. Nếu không có Nam Cao thì trong lịch sử văn học sẽ trống đi một chỗ trong việc phản ánh đất nước. Tâm hồn con người sẽ thiếu đi một cây bút xuất sắc trong nền văn học dân tộc.
– Tuyên ngôn nghệ thuật của cụ là: “ Văn chương chỉ dung nạp được những ai biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có…” Nam Cao không dừng lại ở những hiện tượng bề mặt. Ông cố gắng đi sâu vào một bản chất của một sự vật và bày tỏ thái độ đồng cảm xót thương đối với những tâm hồn lao khổ. Tấm lòng yêu thương nhân đạo và sự hiểu biết sâu sắc về con người, đời sống ở thôn quê đã giúp Nam Cao xây dựng hình tượng người nông dân sinh động. Từ một làng quê heo hút của mình, nhà văn đã mở ra cả một thực trạng nông thôn đang thời kỳ lột xác.
Nam Cao có được một thi pháp rất độc đáo. Tác phẩm Nam Cao bộc lộ một kiểu tư duy mới. Tư duy phần tính đặc biệt thể hiện xuất sắc kiểu tâm lý nhân vật lưỡng khả- một lại tâm lý dang dở giữa tỉnh- say, khóc- cười..ý thức và vô thức. Sức hấp dẫn ở sự phân tích nhân vật sắc sảo. Nam Cao chú ý đến nội tâm hơn là ngoại hình nhân vật. (trừ những trường hợp có dụng ý đặc biệt thuộc về những chi tiết nghệ thuật). Dường như mọi đặc sắc nghệ thuật của Nam cao đều gắn với sở trường ấy: vấn đề đói miếng ăn và nhân phẩm con người. Vấn đề tưởng như cũ nhưng rất mới như vấn đề “ sống mòn”, vấn đề tha hóa cho đến nay vẫn còn rất mới. Vấn đề đói ăn , thiếu mặc chưa khổ bằng vấn đề bị tha hóa nhân phẩm con người.
– Nam Cao là người thực sự viết bài ai điếu tiễn đưa người nông dân vào cõi chết. Và chỉ có Chí Phèo mới là người trôi xa nhất trong dốc trượt của cuộc đời – là “cột mốc cuối cùng đi tới của các số phận”. Ngòi bút của Nam Cao như nhỏ từng giọt nước mắt theo số phận Chí Phèo. Nam Cao đã tìm được lối viết rất riêng. Khuôn mặt nhân vật của Nam Cao rất xấu: những Chí Phèo, Thị Nở, Trạch Văn Đoành… hình thức đó phải chăng là báo hiệu sự tha hóa,bóp méo về tâm hồn của họ ( xét về mối tương đồng) mà cũng có thể dụng ý của nhà văn là ở cái xã hội ấy phải sản sinh ra những con người ấy. Nhưng xét về mối tương phản có lẽ nhà văn muốn nhắc chúng ta hãy nhìn cho kỹ kẻo lầm. Thị Nở xấu xí vậy nhưng vẫn còn chút thương người. Còn Bá Kiến không xấu về hình thức nhưng lại độc ác giã man vô cùng. Ở Chí Phèo anh vẫn có điểm sáng. Anh ước mơ được trở lại cuộc sống con người lương thiện…
Anh đã giải quyết một cách thông mình cho đường đi không thể nào khác của số phận mình khi bị cuộc đời chối bỏ. Lối đặt tên nhân vật của Nam Cao lại cũng khác người. Nam Cao rất hiện thực và nhân đạo. Ở Nam Cao cái làm nên nghệ thuật là cái bình thường hàng ngày. Như vậy có thể nói mỗi chi tiết trong tác phẩm vừa là đơn thể vừa là chỉnh thể. Mỗi giọt nước mắt được Nam Cao miêu tả cũng chính là giọt nước mắt ấy đồng thời là cả biển cả khổ đau.
Nam Cao xứng đáng là nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam.
– Nam Cao ra đi để lại cho đời sau, những thế hệ người đọc một số lượng tác phẩm không nhiều nhưng đạt đến đỉnh cao của dòng văn học hiện thực phê phán. Đọc “ Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố,” Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, chúng ta từng bắt gặp những con người bị dồn đẩy đến chân tường và cũng đã chứng kiến không ít những số phận éo le.Nhưng đến Nam Cao cảnh nghèo đã thấm thía qua từng trang sách. Và người đọc cứ day dứt không nguôi về bi kịch của con người bị đẩy đến tận đáy cùng xã hội. Không có một nỗi khổ nào hơn nỗi khổ của Chí Phèo khi bị tước cả quyền làm người, quyền được lao động, quyền được mơ ước yêu thương. Do bị áp bức đè nén quá nặng nề, cờ bạc rượu chè cùng quẫn, đói ăn thiếu mặc, liều lĩnh. Chí Phèo là một kiểu nạn nhân đau khổ mà số phận của anh là một lời tố cáo mạnh mẽ, một tiếng kêu đau thương. Chí Phèo là sản Phẩm của một hoàn cảnh xã hội bế tắc.Con người bị tước đoạt hết mọi quyền sống tối thiểu nhất và bị xô đẩy vào vòng tội lỗi. Những truyện ngắn viết về người nông dân biến chất đã miêu tả quá trình suy sụp của họ trên cái dốc đời mà Chí Phèo là người trôi xa nhất nên cuối cùng rơi vào đáy tội lỗi. Nhưng điều đáng quý là anh đã mong muốn trở về con đường lương thiện.
– Con đường hoàn lương không thực hiện được vì bị kẻ thù chặn đứng lại, nhưng chính trên chặng đường ngắn ngủi này, bộc lộ bao xót xa đau đớn của nhân vật muốn khẳng định lại những ước mong chân chính được làm người. Do đó giá trị nhân đạo của vấn đề càng sâu sắc.
Nam Cao là một nhà văn tài hoa, giàu lòng nhân ái. Chỉ tiếc rằng cụ ra đi quá sớm nhưng sự nghiệp văn chương ngắn ngủi đó đã để lại cho chúng ta một “ Chí Phèo” và những truyện ngắn khác vẫn còn mãi với thời gian.