/tmp/bmvzs.jpg
Tham khảo Top 7 dàn ý phân tích bài Vội vàng ngắn gọn, chi tiết, hay nhất. Qua các dàn ý sau đây sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính và cách triển khai các luận điểm nhằm hoàn thiện bài viết một cách hoàn chỉnh nhất. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung bài viết
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Xuân Diệu
– Giới thiệu chung về bài thơ Vội vàng
2. Thân bài
a. 13 câu đầu – Tình yêu cuộc sống tha thiết, đắm say của Xuân Diệu:
– Đoạn thơ ngũ ngôn:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
– Nghệ thuật:
+ Điệp cấu trúc “tôi muốn, cho”, điệp từ “đừng”: như một lời cầu xin khẩn thiết
=> Tác dụng: Nhấn mạnh khao khát chảy bỏng, tha thiết, được “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ màu cho cuộc sống, giữ hương cho đời, lưu giữ mãi khoảnh khắc đẹp nhất của thiên nhiên hiện tại.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
– Nghệ thuật: điệp cấu trúc, đảo ngữ “của này đây, này đây của”, liệt kê
=> Phơi bày ra vẻ đẹp không kể hết, không tả xiết của cõi trần gian. Nhà thơ căng mở các giác quan để đón nhận vẻ đẹp trần thế. Đây cũng chính là tiêu chí của nhà thơ Xuân Diệu được lặp lại trong rất nhiều bài thơ khác:
“Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn
Sống toàn than và thức nhọn giác quan”
=> Xuân Diệu đã cảm nhận đầy đủ hương vị và thanh sắc của cuộc đời
– Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân trần thế:
+ “Của ong bướm này đây tuần tháng mật”: vị ngọt
+ “Này đây hoa của đồng nội xanh rì”: hương thơm, màu sắc
+ “Này đây lá của cành tơ phơ phất”: dáng hình uyển chuyển
+ “Của yến anh này đây khúc tình si”: âm thanh
+ “Này đây ánh sáng chớp hang mi”: ánh sáng của bình minh xuân.
=> Tất cả những vẻ đẹp mỗi ngày như một bữa tiệc đầy đủ, thịnh soạn, bày ra gõ cửa mang niềm vui đến từng nhà.
=> Quan điểm mới mẻ, tiến bộ của Xuân Diệu: Cuộc sống xung quang chúng ta đẹp vô cùng. Vẻ đẹp không ở đâu xa mà ở ngay cõi trần thế, xung quanh mình
– Vẻ đẹp của mùa xuân tình yêu: Khu vườn xuân đã biến thành khu vườn yêu, sự vật có đôi, có cặp. Từ thi nhân trước khu vườn mùa xuân tình thế thành tình nhân trong khu vườn tình yêu.
+ Xuân Diệu khái quát lại: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
+ “Tháng giêng” là tháng đầu tiên của mùa xuân, căng mọng đẹp tươi nhất
+ “Cặp môi gần”: căng mọng, tươi đẹp nhất của tuổi trẻ.
+ “Ngon”: nghệ thuật chuyển đổi cảm giác. Tháng giêng chỉ năm tháng, trừu tượng => môi gần: hữu hình, cụ thể
=> Có thể cảm nhận, hưởng thụ vẻ đẹp của mùa xuân rõ nét, cụ thể hơn
– Quan điểm thẩm mĩ mới mẻ, tiến bộ: Trong văn học xưa, coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp thì trong thơ Xuân Diệu, con người là chuẩn mực của cái đẹp, tôn vinh vẻ đẹp của con người.
– Xuân Diệu luôn mang nỗi ám ảnh bởi thời gian, lo sợ thời gian chảy trôi mình sẽ không đón nhận được, tận hưởng từng giây từng phút vẻ đẹp của cuộc sống.
– Suy tư của Xuân Diệu:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nữa”.
=> Dấu chấm ngách đôi câu thơ, diễn tả hai cảm xúc của Xuân Diệu, chuyển từ cảm giác sung sướng sang hoài niệm.Tiếc xuân ngay cả trong lúc xuân đang đẹp nhất, mới có ý thức đón nhận, cảm nhận, căng mở tất cả các giác quan để đón nhận tất cả vẻ đẹp của cuộc đời.
b. 16 câu tiếp: Quan niệm mới về thời gian của Xuân Diệu
* 2 câu thơ đầu:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”
– Thời gian tuyến tính, một đi không trở lại
– Nghệ thuật:
+ Cách ngắt nhịp tuần tự trong cả hai câu thơ ¾, diễn tả bước đi của thời gian
+ Điệp cấu trúc: điệp cấu trúc kiểu câu định nghĩa.
+ Cặp từ đối lập: tới – qua, non – già.
=> Tác giả muốn nhấn mạnh quy luật bước đi, sự vận hành của thời gian, tuần tự, không trở lại.
* 7 câu thơ tiếp theo
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”
– Mùa xuân đi qua mang theo tuổi thanh xuân của con người, quy luật mang tính tác động tiêu cực.
– Nghệ thuật: Dựng lên những cặp đối lập:
+ Rộng >< chật
+ Xuân tuần hoàn >< tuổi trẻ
+ Còn trời đất >< chẳng còn tôi mãi
=> Sự vô hạn, vô cùng của trời đất nhưng đời người thì hữu hạn.
– “Lượng trời chật”: Chật khi lấy đi tuổi trẻ, tuổi xuân của mỗi ngừoi
– “Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian/ tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.
=> Tuổi trẻ là thời đẹp đẽ của mỗi người.
=> Cảm xúc của nhà thơ: bâng khuâng, tiếc nuối
* 7 câu thơ cuối:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”
– Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: tháng năm có mùi vị, tháng năm được cảm nhận bằng giác quan khứu giác “mùi”, vị giác “chia phôi”, thị giác “rớm”, hữu hình hóa tháng năm vốn trừu tượng.
– Những câu thơ sau là sự giải thích: Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt; Con gió xinh thì thào trong lá biếc; Chim rộn rang bỗng đứt tiếng reo thi.
=> Dòng chảy của thời gian khiến vạn vật từng giây phút luôn có những cuộc chia li, vạn vật chia li với một phần đời đã qua của mình.
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
=> Cảm xúc nuối tiếc, nền tảng khơi dậy những khao khát cháy bỏng ở đoạn sau
c. 10 câu thơ cuối: Giải pháp tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời
– Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, tuổi trẻ là gian đoạn đẹp nhất của đời người.
– Nghệ thuật:
+ Thay đổi cách xưng hô: “tôi” sang “ta”
+ Dùng một loạt các động từ mạnh: ôm, riết, say, thâu.
=> Muốn tận hưởng bằng tất cả các giác quan. Vẻ đẹp cuộc đời nhiều vô cùng, đầy ăm ắp, thịnh soạn của bàn tiệc mùa xuân, cuộc đời
+ Sử dụng nhiều tính từ: chếnh choáng, đã đầy, no nê
=> Diễn tả sự thỏa mãn tột cùng khi tận hưởng.
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
– Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: mùa xuân không còn vô hình, trừu tượng, tác giả hình dung mùa xuân như trái chín ửng hồng, muốn “cắn” => mong muốn được hưởng thụ
– Quan niệm sống của tác giả: Hãy tăng tốc độ sống, tận hưởng và tận hiến
3. Kết bài
– Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ
1. Mở bài
– Xuân Diệu vốn được mệnh danh là ông hoàng thơ tình, nên thơ của ông viết về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ luôn rất tình cảm, nồng nàn và đầy nhiệt huyết
– Vội vàng là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Xuân Diệu.
2. Thân bài
* Bốn dòng đầu:
– Khao khát được giữ lại những gì tươi đẹp nhất của cuộc sống, muốn “tắt nắng”, “buộc gió”
– Cái tôi ngông cuồng và hồn nhiên cùng được được bộc lộ.
* 7 dòng tiếp “Của ong bướm…cặp môi gần”
– Bức tranh thiên nhiên mùa xuân thật đẹp
+ Ong bướm say mê trong “tuần tháng mật”
+ Hoa rực rỡ trong màu “xanh rì” của đồng nội
+ Cành tơ phơ phất đùa vui với gió xuân
+ Âm thanh rộn rã, náo nhiệt như khúc nhạc “tình si” của cặp yến anh
=> Tất cả đều có đôi có cặp, khiến ta liên tưởng đến một tình yêu hạnh phúc, ngọt ngào, say mê.+ Hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” => Liên tưởng đến ánh nắng lọt qua rèm mi của cô gái trẻ in bóng trên gương mặt xuân sắc, đây là hình ảnh nhiều sức gợi.
+ Chuyển đổi cảm giác từ thị giác, thính giác sang vị giác, cảm nhận tháng giêng, mùa xuân tựa một món ăn thật mỹ vị, cảm giác căng tràn sức sống mịn màng từ đôi môi của người con gái trẻ tuổi đang đắm chìm trong tình yêu.
* 11 dòng tiếp “Tôi sung sướng…cả đất trời”:
– Nỗi hoang mang sợ mùa xuân qua đi của Xuân Diệu ngay chính giữa mùa xuân
– Phát hiện quy luật của thời gian của tạo hóa, mùa xuân tuần hoàn, nhưng cuộc đời chỉ có một.
– Hờn trách cuộc đời, tuổi xuân của con người quá ngắn, không đủ cho Xuân Diệu được tận hưởng.
– Nỗi tiếc nuối sâu sắc về những vẻ đẹp của mùa xuân, của cuộc sống, “tiếc cả đất trời”.
* 7 dòng thơ tiếp “Mùi tháng năm…chẳng bao giờ nữa…”:
Không chỉ riêng mình Xuân Diệu phải chịu sự khắc nghiệt của quy luật thời gian, của tạo hóa mà cả vũ trụ đều nằm trong nỗi buồn ấy.
* Mười câu thơ cuối: “Mau đi thôi…cắn vào ngươi!”
– Chân lý sống mới của Xuân Diệu, chạy đua với thời gian, sống “vội vàng” để tận hưởng.
– Những khao khát mãnh liệt thể hiện trong điệp cấu trúc “Ta muốn…”, trong những động từ mạnh, lạ: “ôm, riết, thâu, cắn”.
3. Kết bài
– Vội vàng của Xuân Diệu là một bài thơ xuất sắc về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và tình yêu.
– Thể hiện những khao khát thật mãnh liệt, có khi thật ngông cuồng về ước muốn tận hưởng trọn vẹn mùa xuân tươi đẹp, đó là mùa xuân thiên nhiên và cũng là mùa xuân của cuộc đời.
– Quan điểm thật sâu sắc về cuộc sống, về thời gian cũng được Xuân Diệu tinh tế lồng ghép thật khéo léo trong từng vần thơ của mình.
1. Mở bài:
– Giới thiệu về nhà thơ Xuân Diệu
– Giới thiệu về thi phẩm “Vội Vàng”.
2. Thân bài:
a) Khái quát chung: giới thiệu về hoàn cảnh ra đời và nội dung chính của bài thơ.
b) Phân tích bài thơ:
*) Niềm say đắm trước vẻ đẹp của mùa xuân trên trần thế:
– Thể thơ ngũ ngôn, nghệ thuật điệp ngữ, điệp cấu trúc “tôi muốn”, giọng thơ sôi nổi, qua đó thể hiện khát vọng muốn đoạt quyền của tạo hóa cháy bỏng, tha thiết, một khát vọng kì lạ bởi tác giả muốn níu giữ hương sắc, vẻ đẹp của cuộc đời, muốn níu kéo thời gian để bất tử hóa vẻ đẹp của mùa xuân.
– Bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện ra với vẻ đẹp tươi mới, đó là một vẻ đẹp ngay trong chính trần gian này. tất cả đều ở trạng thái quyến rũ nhất và say sưa nhất: “của ong bướm này đây tuần tháng mật, “này đây hoa của đồng nội xanh rì”, “này đây lá của cành tơ phơ phất”,.. tất cả đều rất tươi mới và chân thực. “và này đây ánh sáng chớp hàng mi”, ánh sáng như phát ra từ đôi mắt của người thiếu nữ khi nàng chớp hàng mi, gợi một vẻ đẹp ngây thơ, trong lành. Nghệ thuật so sánh cái vô hình với cái hữu hình “tháng giêng ngon như một cặp môi gần” gợi sự quyến rũ, ngọt ngào và đắm say, cho thấy niềm say mê đến vồ vập của thi sĩ trước cuộc đời. qua đó, thấy được quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của xuân diệu: con người là chuẩn mực cái đẹp khi ở độ tuổi thanh xuân.
– Hai câu thơ cuối giọng thơ lắng xuống. Ngay trong sung sướng, thi nhân đã bắt đầu phải vội vàng, đang trong hạnh phúc đã thấy mầm móng của li biệt.
*) Nuối tiếc trước dòng thời gian chảy trôi:
– Ba câu đầu: sử dụng lối nói định nghĩa “xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già/ mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Nếu các nhà thơ xưa thường nhìn thời gian theo một vòng tuần hoàn thì xuân diệu lại nhìn thời gian ở một thế chảy trôi, thời gian một đi mà không quay trở lại “mau với chứ thời gian không đứng đợi/ mau với chứ vội vàng lên với chứ”. Ông ý thức được rằng mùa xuân của cuộc đời đi qua thì cuộc đời cũng qua mau bởi tuổi xuân là tuổi đẹp nhất, có ý nghĩa nhất trong cuộc đời của con người. Đây thực chất là sự ảnh hưởng của tư duy pháp.
– Ý thức được về sự chảy trôi của thời gian, xuân diệu cảm thấy bâng khuâng và tiếc nuối. thi nhân hình dung cả một cuộc chia ly đầy ắp đất trời, thấm đượm tháng năm “mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi/ khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. “Mùi tháng năm” là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, cho thấy sự tương giao trong cách cảm nhận. cuộc chia ly ấy như thấm cả vào những thứ vô hình, khi xuân qua đi thì cỏ cây, con người đều buồn: sông núi thì “than thầm”, gió thì “hờn”.
*) Khát khao sống mãnh liệt:
– Giọng thơ hối hả, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt được tạo nên bởi những câu cảm thán thể hiện sự giục giã. Nghệ thuật điệp cấu trúc, điệp từ, liệt kê tạo cho những câu thơ nhịp điệu nhanh, mạnh như một làn song trào dâng cảm xúc. động từ “ôm”, “say”,.. thể hiện khát khao , sự cuồng nhiệt muốn giao cảm với cuộc đời. nhà thơ xưng “tôi” thể hiện một khát vọng cá nhân mãnh liệt, táo bạo. ở đây, thi sĩ lại xưng “ta” để như mở rộng lòng mình với cuộc đời. “ta” ở đây chính là sự mở lòng, mở rộng tấm lòng với cuộc đời, với nhân sinh.
– Lời giục giã “mau đi thôi” làm cho câu thơ mang một ngữ điệu mới, khác hẳn với câu thơ cổ: ngữ điệu nói. trong thơ cổ, lỡi lẽ thường phải rất chắt lọc, còn Xuân Diệu lại sử dụng những từ ngữ được lặp đi lặp lại rất nhiều lần .
– Ta cảm nhận như dòng cảm xúc của nhà thơ đang tuôn trào vượt ra ngoài từ ngữ. giọng thơ thể hiện tâm trạng vội vàng phù hợp với những hành động gấp gáp của thi nhân. hình ảnh thơ mơn mởn với mây đưa gió lượn, cánh bướm, cây, cỏ rạng, ánh sáng,… Điệp ngữ “ta muốn” thể hiện một khát vọng cháy bỏng. nhà thơ như muốn tận hưởng cuộc đời và sự quý giá của cuộc sống nơi trần gian. với xuân diệu, mùa xuân là một màu hồng nồng ấm, muốn cắn vào trái chín mùa xuân, trái chín cuộc đời.
– Nhà thơ như đang say men cảm xúc với cuộc đời. sống “vội vàng” ở đây không phải là lối sống gấp chỉ biết hưởng thụ hôm nay mà bỏ qua ngày mai mà đó là một lối sống tích cực, cho thấy môt khát vọng sống mãnh liệt, yêu cuộc sống của thi nhân.
– Phân tích nghệ thuật thể hiện
3. Kết bài:
– khẳng định lại những thành công của Xuân Diệu
– Bài học dành cho người sáng tác và tiếp nhận văn học.
1. Mở bài phân tích Vội Vàng
– Giới thiệu về tác giả Xuân Diệu và đặc điểm thơ Xuân Diệu
– Giới thiệu khái quát về bài thơ Vội vàng.
2. Thân bài phân tích thơ vội vàng
Phân tích bài thơ Vội vàng
a, Bốn câu thơ đầu
– Thể hiện một ước muốn tưởng chừng như vô lí, viển vông của Xuân Diệu
– Nhưng xét đến cùng, đó là ước muốn giữ lại hương sắc cho cuộc đời
– Nghệ thuật: điệp ngữ, thể thơ năm chữ, tạo nhịp điệu nhanh, dồn dập
b, Chín câu thơ tiếp theo
– Bảy câu thơ đầu: bức tranh thiên nhiên – “thiên đường trên mặt đất”
+ Hình ảnh thơ tươi vui, trẻ trung, có đôi có cặp, tất cả như đang tràn trề ra “ong bướm tuần tháng mật”, “hoa của đồng nội xanh rì”, “yến anh khúc tình si”, “ánh sáng chớp hàng mi”
+ Biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, điệp ngữ
– Bảy câu thơ đầu: bức tranh thiên nhiên – “thiên đường trên mặt đất”
+ Hình ảnh thơ tươi vui, trẻ trung, có đôi có cặp, tất cả như đang tràn trề ra “ong bướm tuần tháng mật”, “hoa của đồng nội xanh rì”, “yến anh khúc tình si”, “ánh sáng chớp hàng mi”
+ Biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, điệp ngữ
Vè Một bức tranh thiên nhiên đầy ánh sáng mới mẻ, tinh khôi, đầy âm thanh rộn rã, đầy màu sắc, hương thơm và đầy tình tứ. Dường như, trong bức tranh ấy, tất cả vạn vật đều căng tràn sự sống và đanh chếnh choáng trong men say của luyến ái, của tình yêu.
– Hai câu còn lại: niềm vui sướng, hân hoan, vội vàng muốn tận hưởng “thiên đường trên mặt đất” của cái tôi trữ tình.
c. Mười sáu câu tiếp theo
– Quan niệm mới mẻ về thời gian, về tuổi trẻ:
+ Điệp từ “nghĩa là”
+ Quan niệm về thời gian, tuổi trẻ: thời gian, tuổi trẻ của mỗi người là một quãng thời gian hữu hạn, chật hẹp, nó sẽ trôi chảy theo nhịp tuyến tính và một đi không trở lại.
– Tâm trạng nuối tiếc, ngậm ngùi trước sự chảy trôi của thời gian, của tuổi trẻ
+ Điệp từ: phải chăng
+ Sử dụng các hình ảnh thơ đối lập: “lòng tôi rộng” – “lượng trời chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, “còn trời đất” – “chẳng còn tôi mãi”
d. Mười câu thơ còn lại
– Điệp từ “ta muốn”
– Sử dụng hàng loạt động từ mạnh theo cấp độ tăng dần: “ôm” – “riết” – “say” – “thâu” – “cắn”
Diễn tả một cách trọn vẹn và sâu sắc lời giục dã sống vội vàng, sống sôi nổi và luôn trân quý thời gian, tuổi trẻ của của tác giả. Và xét đến cùng, lời giục dã ấy chính là biểu hiện của một cái tôi khát khao sống, khát khao tận hưởng những vẻ đẹp giữa chốn trần gian.
3. Kết bài phân tích bài thơ vội vàng
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ : Bài thơ với một hình thức nghệ thuật rất điêu luyện: sự kết hợp hài hòa giữa mạch trữ tình và mặt triết lí, cũng việc sử dụng thành công các biện pháp tu từ đã cất lên lời giục dã sống mãnh liệt, sôi nổi và luôn biết trân quý từng giây phút trong cuộc đời mình.
1. Mở bài:
– Giới thiệu đôi nét về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng.
Ví dụ:
Một trong những tác phẩm đặc sắc và nổi tiếng của nhà thơ Xuân Diệu là “Vội vàng”, bài thơ được in trong tập thơ “Thơ thơ”. Tác phẩm thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả, nổi âu lo cuộc sống, sự trôi nhanh của thời gian và niềm lạc quan với cuộc sống của nhà thơ. Bài thơ là niềm tin, niềm yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của tác giả, chúng ta cùng đi tìm hiểu tác phẩm Vội vàng của Xuân Diệu để hiểu rõ hơn về bài thơ này.
2. Thân bài: phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu hay nhất
* Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả (11 câu đầu)
– Tác giả muốn ngự trị thiên nhiên, muốn tước đoạt quyền của tạo hóa để thiên nhiên và thời gian không thay đổi
– Niềm say mê, yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả
– Bức tranh thiên nhiên được hiện lên rất hữu tình, xinh đẹp và có đôi lứa
* Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời (18 câu tiếp theo)
– Nhà thơ cảm nhận được thời gian trôi mau
– Nhịp thơ của tác giả cũng hối hả, những câu thơ đầy mỹ miều về thiên nhiên
– Xuân Diệu cảm nhận thiên nhiên một cách mất mát
– Lưu luyến tuổi trẻ, niềm say mê thiên nhiên đẹp đẽ
* Khát vọng sống, khát vọng cuồng nhiệt của tác giả (10 câu cuối):
– Giục giã thời gian để tận hưởng cuộc sống
– Mãnh liệt khát vọng yêu thương
– Tác giả cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác quan của mình
3. Kết bài:
– Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.
Ví dụ:
Bài thơ Vội vàng thể hiện niềm say mê, yêu thương cái đẹp của tác giả, đồng thời thể hiện sự hi vọng niềm tin yêu vào cuộc sống hiện tại.
1. Mở bài
– Rút trong tập Thơ thơ, tập thơ đầu của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938.
– Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ và thời gian.
2. Thân bài
* Bố cục của bài thơ
Bài thơ có thể chia làm ba đoạn:
– Đoạn 1 (13 câu đầu): Tình yêu cuộc sống thiết tha và say đắm của tác giả.
– Đoạn 2 (câu 14 đến câu 30): Tâm trạng băn khoăn của tác giả về tuổi trẻ của đời người trước sự qua đi nhanh chóng của thời gian.
– Đoạn 3 (9 câu cuối): Tâm trạng vội vàng, thái độ sống gấp gáp của tác giả, đồng thời là tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân Diệu.
=> Bố cục của bài thơ khá rõ ràng, thể hiện mạch lí luận sâu sắc và chặt chẽ. Đó là mạch cảm xúc hối hả, vội vàng trước sự qua đi nhanh chóng của thời gian.
* Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu trong bài thơ
– Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu gắn liền với mùa xuân của thiên nhiên và tuổi trẻ của con người. Đó là cảm nhận của một con người yêu cuộc sông say đắm, thiết tha đến mức phải vội vàng.
– Thời gian và mùa xuân
+ Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu hết sức tinh tế và đầy triết lí nhân sinh. Xuân Diệu viết bài thơ này khi còn rất trẻ, đó là cái tuổi của sự sống mơn mởn, của việc hưởng thụ sự sống, ít ai có thể nghĩ đến một triết lí sâu xa như Xuân Diệu.
+ Đối với Xuân Diệu, mỗi khắc thời gian trôi qua chính là niềm lo sợ, canh cánh trong lòng.
+ Tác giả sử dụng cú pháp đối lập để diễn tả sự trôi đi của thời gian và tuổi trẻ: đương tới / đương qua; còn non / sẽ già.
=> Sự cảm nhận về thời gian đó đã giúp tác giả rút ra kết luận về sự đồng nhất giữa mùa xuân và tuổi trẻ của chính mình cũng như của tất cả mọi người:
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
+ Mùa xuân trôi đi thì tuổi trẻ cũng phai tàn, và khi xuân không còn thì đời người cũng hết.
+ Cảm nhận về sự tàn phai của thời gian đã được Xuân Diệu khái quát thành một triết lí nhân sinh.
-> Chắc hẳn phải là người có ham muốn sống tột bậc mới có thể cảm nhận về thời gian một cách cao sâu như vậy.
=> Hẳn là trong Xuân Diệu đã chứa chất bi kịch của nhà thơ lãng mạn trong thân phận một thi nhân mất nước lúc bấy giờ, cũng có thể Xuân Diệu quá yêu cuộc sống nồng nhiệt đến mức sợ thời gian cướp mất tuổi xuân của mình. Có thể gỉải thích bằng nhiều cách khác nhau, tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu bắt nguồn từ chính lòng yêu đời, yêu cuộc sống của sống.
– Thời gian và tuổi trẻ
+ Mùa xuân chính là tuổi trẻ của đời người, của tác giả.
+ Thời gian làm mùa xuân trôi qua cũng chính là cướp đi tuổi trẻ của tác giả. Đó chính là sự lo lắng và xót xa của con người vốn rất yêu cuộc sống, yêu cái tuổi trẻ đầy sức sống của mình.
+ Tâm trạng lo lắng đó đã được tác giả bộc bạch trong những câu thơ đầy triết lí:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chằng hai lần thắm lại!
+ Câu thơ tưởng chừng là lời than vãn nhưng hiện lên trong đó là một quan niệm sâu sắc: cuộc đời làm sao có hai lần tuổi trẻ, và khi thời gian trôi qua thì tuổi trẻ có còn? Một sự so sánh không hề khập khiễng để thấy rằng cuộc đời con người luôn có giới hạn và nhất là cái tuổi trẻ thật đẹp nếu so với mùa xuân của trời đất.
+ Với Xuân Diệu, tuổi trẻ là cái quý nhất của cuộc đời con người, đó là khoảng thời gian đẹp nhất và hạnh phúc nhất. Chính vì vậy tuổi trẻ trôi qua là điều nhà thơ lo lắng nhất và tiếc nuối nhất: Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
=> Cảm nhận về thời gian của tác giả làm hiện lên niềm khát khao sống, khát khao hạnh phúc của một con người vốn có nhiều khát khao. Niềm khát khao ấy thể hiện qua ước muốn níu kéo thời gian để giữ mãi tuổi thanh xuân, giữ mãi mùa xuân của đời người, để con người mãi sống trong tuổi trẻ, trong mùa xuân của cuộc đời.
* Cảm nhận của tác giả về thiên nhiên và sự sống trong bài thơ
– Nhà thơ giãi bày cái ước muốn tưởng như ngông cuồng của mình bằng một bức tranh tràn đầy sức sống, ngồn ngộn sắc xuân, hương xuân và tình xuân.
– Bức tranh thiên nhiên có đủ ong, bướm, hoa lá, yến anh và cả ánh bình minh rực rỡ, tất cả đang ở thời kì sung mãn nhất, sức sống căng đầy nhất.
+ tuần tháng mật của ong bướm
+ hoa của đồng nội xanh rì
+ lá của cành tơ phơ phất
+ khúc tình si của yến anh
+ hàng mi chớp ánh bình minh của mặt trời…
-> Tất cả hiện hữu có đôi lứa có tình như mời, như gọi, như xoắn xuýt.
– Thi sĩ lãng mạn đã đón chào và chiêm ngưỡng cuộc sống, thiên nhiên bằng cặp mắt xanh non của tuổi trẻ. Cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa đắm say ngây ngất.
– Điệp khúc này đây cùng với các liệt kê theo chiều tăng tiến, cách dùng từ láy, từ ghép và những cụm từ tuần tháng mật, khúc tình si hòa vào nhịp thơ gấp gáp, khẩn trương vừa diễn tả cảm giác sung sướng, ngây ngất, vừa có nhịp thơ gấp gáp, vừa có gì như là sự hối thúc, giục giã, khiến cho ai đó dù vô tình cũng không thể làm thơ, không thể quay lưng.
– Cuộc sống là thiên đường trên mặt đất, hãy tận hưởng và tận hưởng. Đó là lời tác giả muốn nhấn mạnh khi khắc họa bức tranh thiên nhiên trong bài thơ.
– Nhà thơ như say khi thốt lên:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
+ Câu thơ có ý nghĩa bao quát cả đoạn và lối diễn độc đáo mới lạ.
+ Với Xuân Diệu, cuộc đời đẹp nhất là tuổi trẻ, cũng như một năm đẹp nhất là mùa xuân và mùa xuân đẹp nhất là tháng giêng. Cái đẹp nằm ở sự bắt đầu, tinh khôi, mới mẻ, hồng hào, mơn mởn…
+ Xuân Diệu đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng cặp môi gần, truyền cảm giác cho người đọc bằng các từ ngon, gần.
=> Câu thơ của Xuân Diệu không chỉ gợi hình thể mà còn gợi cả hương thơm và vị ngọt khiến người ta đắm say, ngây ngất.
* Quan niệm sống mới mẻ
– Yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống, biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng.
– Từ đó, càng thêm yêu mùa xuân và tuổi trẻ, những gì đẹp nhất của cuộc sống con người.
-> Đó là quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc.
* Đặc sắc nghệ thuật
– Hình ảnh tươi mới, đầy sức sống như sự sống mơn mởn; mây đưa và gió lượn; cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều; non, nước, cỏ cây; mùi thơm, ánh sáng, hương sắc: xuân nồng.
– Ngôn từ với những động từ mạnh và tăng tiến như ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.
– Nhịp điệu dồn dập, hối hả, sôi nổi và cuồng nhiệt được tạo nên bởi những câu thơ dài ngắn xen kẽ.
3. Kết bài
– Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ
– Nêu cảm nhận của em về bài thơ
Ví dụ: Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, ích kỉ trong hưởng thụ. Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Bài thơ Vội vàng cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn thông qua cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. Vội vàng tiêu biểu nhất cho Thơ mới, thơ lãng mạn 1932 – 1941.
1. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
+ Xuân Diệu là nhà thơ đa tài, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” với phong cách nghệ thuật độc đáo, được mệnh danh là ông Hoàng thơ tình Việt Nam.
+ Bài thơ Vội vàng rút ra trong tập Thơ Thơ, là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp thơ Xuân Diệu trước Cách mạng. Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng phút, từng giây của cuộc đời mình nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt.
2. Thân bài
* Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê cuộc sống trần thế
– Thiên nhiên rất đẹp, đầy hương sắc của hoa đồng nội xanh rì, của lá cành tơ phơ phất, tuần tháng mật của ong bướm, khúc tình si của yến anh, và này đây ánh sáng chớp của hàng mi.
– Chữ “này đây” được nhắc lại 5 lần để diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng tắt nắng đi và buộc gió lại. Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.
– Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó là lúc Thần Vui hằng gõ cửa.
– Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, “ngon như một cặp môi gần”.
+ Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo.
+ Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ.
-> Đây là câu thơ hay nhất mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.
=> Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi – cái tuổi thanh xuân bừng sáng, nhưng thi sĩ đã vội vàng một nửa – cách nói rất thơ – chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên.
+ Dấu chấm giữa dòng thơ rất mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn về vội vàng:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoài niên mà đã “vội vàng một nửa”… -> Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.
* Nỗi trăn trở trước thời gian và cuộc đời
– Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói: Thời gian là vàng ngọc; Bóng ngả lưng ta; Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời gian một đi không trở lại.
– Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà thơ: tương phản đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi không trở lại.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại…
+ Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới – qua, non – già, hết – mất, rộng – chật, tuần hoàn – bất phục hoàn, vô hạn – hữu hạn để khẳng định một chân lí – triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại vì vậy cần phải quý tuổi xuân.
– Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và tương lai; cái đang có lại đang mất dần đi…
– Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi hoặc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp sửa. Cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương, vội vàng của tạo vật. Với Xuân Diệu, hầu như cuộc sống nơi vườn trầu đều ít nhiều mang bi kịch về thời gian.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
– Cũng là gió, là chim… nhưng gió thì thào vì hờn, chim bỗng ngừng hót, ngừng rao vì sợ
– Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để là nổi bật nghịch lí giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
– Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối. Lo lắng.
– Chợt tỉnh mùa chưa ngả chiều hôm, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già.
– Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. -> Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Chẳng bao giờ/ ôi/ Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi/ mùa chưa ngả chiều hôm…
– Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm Thơ tiếc cảnh :
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.
(Bài số 3)
Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm.
(Bài số 7)
=> Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong Vội vàng về màu thời gian, về sắc thời gian và tuổi trẻ. Thật yêu đời. Thật ham sống.
* Khát vọng sống, khát vọng cuồng nhiệt của tác giả
– Mở đầu bài thơ là cái tôi hăm hở: Tôi muốn tắt nắng đi. Kết thúc bài thơ là ta, là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong dòng chảy thời gian: Sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê.
– Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả, ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: ta muốn ôm, ta muốn riết, ta muốn say, ta muốn thâu.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
– Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật vắt dòng với ba từ và xuất hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc: say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơ, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng… đều là khao khát của thi nhân:
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
3. Kết bài
– Cảm nhận của em về bài thơ Vội Vàng
Ví dụ: Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, ích kỉ trong hưởng thụ. Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống vội vàng như vậy. 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.
—/—
Trên đây là Top 7 Dàn ý phân tích bài Vội vàng do Top lời giải sưu tầm được, mong rằng với nội dung tham khảo này các em có thể triển khai bài văn của mình tốt nhất, chúc các em học tốt môn Văn!