/tmp/jyfvj.jpg
Mời các em tham khảo dàn ý Phân tích hào khí Đông A qua bài thơ Tỏ lòng ngắn gọn, chi tiết, hay nhất của Giáo dục trung học Đồng Nai dưới đây để nắm được các ý chính cần triển khai cho bài văn Phân tích hào khí Đông A qua bài thơ Tỏ lòng, qua đó củng cố thêm kiến thức về tác phẩm, và tự viết cho mình một bài văn mẫu hay nhất. Cùng tham khảo nhé!
Nội dung bài viết
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả tác phẩm.
VD: Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống. Hiện thực cuộc sống là chất liệu thô sơ mà nhà văn làm mềm mại trên trang sách. “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão là trang thơ mang đậm tinh thần của thời đại mà nó ra đời như thế, thời đại quân dân nhà Trần kháng chiến chống quân Mông Nguyên, dội vang âm hưởng của hào khí Đông A.
II. Thân bài
1. Hào khí Đông A
+ Đông A là triết tự của chữ Trần trong tiếng hán, gồm bộ A và chữ Đông.
– Hào khí Đông A là khí thế chiến đấu hào hùng của một thời đại vàng son lịch sử, là thời kì bùng lên sức mạnh dân tộc tự lập tự cường, ý chí quyết thắng của quân và dân.
– Hào khí Đông A là sản phẩm của thời đại hào hùng của đất nước, là kết tinh sức mạnh toàn dân, là ngọn lửa vút cao ý chí dân tộc.
– Âm vang của hào khí Đông A có lẽ cũng là một nguồn cảm hứng cho sáng tác “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão.
2. Hào khí Đông A trong bài thơ “Thuật hoài”
a. Hào khí Đông A thể hiện ở sự ngợi ca vẻ đẹp sức mạnh con người thời đại nhà Trần
+ “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
Hai chữ “hoành sóc” làm hiện lên bức chân dung sừng sững của người lính sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
+ “Giang sơn”: gợi không gian rộng lớn.
+ “Kháp kỉ thu”: thời gian dài dằng dặc.
– Vẻ đẹp của tư thế được đặt trong không gian rộng lớn giữa dòng thời gian vô tận, hình ảnh thơ mang tính ước lệ đã tô đậm tầm vóc lớn lao, kì vĩ của người tráng sĩ. Thời gian đã nhấn mạnh vào sự bền bỉ, tinh thần luôn sẵn sàng của người lính.
– Người tráng sĩ có tầm vóc sánh ngang với vũ trụ, khí thế như bao trùm trời đất.
– Thể hiện cảm xúc ngưỡng mộ, tự hào của nhà thơ.
+ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
– Vẻ đẹp cá nhân đã phát triển thành vẻ đẹp cộng đồng.
– “Tam quân”: cách nói ước lệ, chỉ toàn thể quân đội nhà Trần.
– “Tì hổ”: so sánh ngầm quân nhà Trần có sức mạnh dũng mãnh như loài hổ báo.
– “Khi thôn ngưu”: khí thế trận đấu tiêu diệt giặc của quân đội nhà Trần. Đó có thể hiểu là khí thế của những con người trẻ tuổi có khí phách anh hùng, cũng có thể hiểu là khí thế ra trận dũng mãnh làm mờ cả sao Ngưu.
=> Cả hai cách hiểu trên đều làm bật lên sức mạnh kì vĩ, khí thế chiến đấu hào hùng của quân đội nhà Trần. Người lính ra trận với tư thế quyết chiến quyết thắng, đã chiến đấu là phải chiến thắng, lập nên kì tích lẫy lừng trong lịch sử, tạo thành sức mạnh dội vang cho thời đại.
=> Hai câu thơ đã thể hiện cảm xúc ngưỡng mộ, tự hào về sức mạnh tự cường, ý thức tự tôn về dân tộc, làm bừng lên khí thế hào hùng, là thời đại cao đẹp với những con người cao đẹp.
b. Hào khí Đông A thể hiện qua nỗi băn khoăn, suy tư về khát vọng lập công danh của con người thời loạn
+ “Nam nhi vị liễu công danh trái”
Câu thơ nhắc đến chí hướng của nam nhi. Trong văn học trung đại, chữ “nam nhi” gắn liền với lí tưởng công danh; kẻ làm trai sinh ra ở đời phải biết lập công danh, tạo dựng sự nghiệp, để lại tiếng vang trong đời. Lí tưởng công danh đã khích lệ biết bao nam tử hán, để họ sẵn sàng rèn luyện, tu thân sao cho đủ phẩm chất để lập được công danh cho riêng mình.
Thời điểm viết bài thơ này, Phạm Ngũ Lão đã lập nên công danh kì tích, vẫn mà vẫn băn khoăn “Nam nhi vị liễu công danh trái” thể hiện ý chí vươn lên, không ngừng tu thân để hoàn thiện chính mình. Nó là biểu hiện của nhiệt tâm nhiệt huyết của một người chí sĩ muốn cống hiến cho đất nước dân tộc.
+ “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
– “Vũ Hầu”: nhiều mưu lược, vị quân sự nổi tiếng với tài dùng binh. Vũ Hầu từng giúp Lưu Bị lập nên Thục Hán, sau đã xả thân nơi trận mạc.
– Phạm Ngũ Lão lấy Vũ Hầu làm mẫu mực cho công danh sự nghiệp của mình, lấy làm thẹn khi chưa lập được công danh như Vũ Hầu.
– Câu thơ đã nâng cao nhân cách của Phạm Ngũ Lão, thể hiện lòng nung nấu khát vọng lập công, bày tỏ lòng tận trung với đất nước và khát vọng công hiến cả đời cho dân tộc.
+ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão mang tầm vóc lớn lao, là nỗi thẹn tu thân với ý chí lập công sắt đá.
Đặt vào hoàn cảnh ra đời của bài thơ, “Thuật hoài” có thể được coi là lời đáp của con cháu với “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, tạo nên truyền thống vẻ vang cha dũng con hùng.
3. Đánh giá
+ Hào khí Đông A đã góp phần tạo nên chiến thắng lẫy lừng, tạo nên một thời đại với những kì tích rực rỡ lưu danh sử sách.
+ Hào khí Đông A không chỉ là tư tưởng chung của bài thơ mà còn là của cả thời đại nhà Trần, khiến cho thế hệ trẻ phải suy nghĩ mình sẽ làm gì để xứng đáng với cha ông.
+ Hào khí Đông A là dòng mạch chung của văn học cùng thời kì với bài thơ.
III. Kết bài
– Nêu cảm nhận chung của bản thân.
VD: Thời đại nào, văn thơ đó. “Thuật hoài” mang đậm sắc màu anh dũng hào hùng, mang theo mạch nguồn hào khí Đông A đi từ cuộc sống vào trang giấy. Bài thơ đã đưa người đọc sống lại một thời rực rỡ đã qua và khiến ta phải suy ngẫm về bổn phận và trách nhiệm của chính mình
Người xưa đã từng lấy chính tên triều đại nhà Trần làm định danh cho cả một thời đại và hào khí thời Trần được gọi là hào khí Đông A (theo chữ Hán thì chữ Trần do chữ Đông và một bộ phận của chữ A ghép thành). Tinh thần độc lập, tự cường, khí thế và sức mạnh quyết chiến thắng, niềm tự hào trước truyền thống dân tộc và chiến công thời đại là những biểu hiện nội dung của hào khí Đông A. về mặt hình thức, hào khí Đông A thể hiện qua âm hưởng hào hùng, những hình tượng nghệ thuật lớn lao, kì vĩ. Bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão đã kết tinh được hào khí đó trên cả phương diện nội dung của hình thức nghệ thuật.
– Về nội dung, hào khí Đông A thể hiện qua niềm tự hào trước sức mạnh của con người và sức mạnh thời đại. Con người với lí tưởng lớn lao, cao cả, với tầm vóc, tư thế hành động thật kì vĩ: “Múa giáo non sông trải mây thu”. Câu thơ trong nguyên tác “Hoành sóc giang sơn khớp kỉ thu” dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) mà trấn giữ đất nước. Con người xuất hiện với một tư thế hiên ngang mang tầm vóc vũ trụ. Con người với hành động thật phi thường giữa khoảng trời đất, không hề biết mệt mỏi: trải mấy thu. Có được cái tầm vóc ấy, cái hào khí ấy vì người tráng sĩ thời Trần vừa là sản phẩm của thời đại, vừa là sự thể hiện sức mạnh của thời đại, của dân tộc: “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. “Ba quân” là chỉ quân đội, binh sĩ nói chung, ở đây là quân đội nhà Trần. Tuy nhiên hình ảnh “ba quân” còn là biểu tượng cho sức mạnh của dân tộc lúc bấy giờ. Thơ Đỗ Phủ có câu: “Tiểu nhi ngũ tuế khí thôn ngưu” (Trẻ nhỏ năm tuổi mà đã có khí thế nuốt trâu). Tác giả sử dụng cụm từ “khí thôn ngưu” nhưng câu thơ của họ Phạm là một sáng tạo với hình ảnh so sánh “tam quân tì hổ”. Câu thơ của Đỗ Phủ là một thông báo, còn câu thơ của Phạm Ngũ Lão lại gợi lên hình ảnh sức mạnh, khí thế hùng dũng của quân đội nhà Trần.
– Về nghệ thuật, hào khí Đông A thể hiện qua âm hưởng hào hùng, sảng khoái và hình tượng kì vĩ trong bài thơ. ở Tỏ lòng, làm nổi bật hình ảnh con người kì vĩ là một bối cảnh không gian, thời gian kì vĩ. Khôn gian mở ra theo chiều rộng của núi sông. Thời gian đâu phải là chóc lát mà là mấy năm rồi (,kháp kỉ thu’). Lời tự thuật nỗi lòng của tác giả chân tình, mộc mạc nhưng đầy hào sảng. Với bút pháp nghệ thuật hoành tráng, bài thơ của Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được hào khí thời đại Đông A – một trong những thời đại hào hùng nhất của lịch sử Việt Nam.
– Vẻ đẹp cái tâm của người anh hùng thể hiện qua nỗi “thẹn”. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có mưu tài mưu lược lớn như Vũ hầu Gia Cát Lượng thời Hán để trừ giặc, cứu nước. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. Nguyễn Khuyến trong bài Thu vịnh từng bày tỏ nỗi thẹn khi nghĩ tới Đào Tiềm – một tài thơ, một danh sĩ cao khiết thời Tấn: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Trong bài Tỏ lòng, nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là chưa lập được công danh như Gia Cát Lượng. Đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, ước nguyện lập công danh của người anh hùng họ Phạm lại là biểu hiện của ý thức trách nhiệm đối với đất nước. Nỗi thẹn như vậy không làm con người thấp bé đi, mà trái lại, càng nâng cao nhân cách con người.
Tỏ lòng vừa là nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão, vừa thể hiện xu thê chung, tất yếu của thời đại: sức mạnh, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự chủ cho đất nước.
Trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam thì triều đại để lại nhiều dấu ấn nhất có lẽ là triều Trần. Không đạt được những thành tựu to lớn về mặt kinh tế, văn hóa mà thời Trần còn lừng lẫy sử sách với chiến thắng của ba lần chống quân Mông -Nguyên. Phải chăng chính những chiến thắng vang dội ấy đã tạo nên một hào khí vô cùng to lớn, mạnh mẽ, chỉ có ở thời Trần mà không phải bất kì một triều đại nào khác của Việt Nam – hào khí Đông A. Chỉ có ở thời Trần, người ta mới cảm được sức mạnh to lớn mà hào hùng vô cùng của hào khí này. Và nó đã nghiễm nhiên trở thành niềm cảm hứng đi vào không ít tác phẩm thơ ca nổi tiếng vào thời ấy, trong đó có tác phẩm thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão.
Nhắc về hào khí Đông A, hẳn không ít người đã từng nghe thấy rất nhiều lần nhưng vẫn luôn băn khoăn tự hỏi, hào khí Đông A là gì? Tại sao nó lại được phát huy mạnh mẽ nhất vào thời nhà Trần? Hào khí Đông A là hào khí của thời Trần, hai chữ Đông và A khi ghép lại trong nguyên văn chữ Hán sẽ tạo nên chữ Trần, vậy nên mới nói, hào khí này là hào khí của nhà Trần, của quân và dân đời Trần. Nó cũng là cái khí thế oai hùng, hào sảng của nhà Trần, khi mà ở thời kì này, chúng ta đã ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên – đội quân hung hãn nhất thế giới thời bấy giờ. Hào khí Đông A cũng chính là cái khí thế đầy nhiệt huyết, hừng hực trong niềm vui chiến thắng kẻ thù, là sự khát khao mang tính thời đại bởi đói ai cũng muốn góp một phần sức lực bảo vệ non sông, xây dựng Tổ quốc mình. Đồng thời, cũng phải nói rằng hào khí Đông A là kết tinh sâu sắc của lòng yêu nước nồng nàn của con người Việt Nam ta thời đó.
Vậy nên, khi viết “Thuật hoài”, Phạm Ngũ Lão – người con của thời đại ấy đã mang vào trong những câu thơ của mình cái hào khí Đông A hào hùng đó. Nó vang vọng trong mỗi câu chữ của bài thơ.
Ở ngay những dòng đầu tiên của bài thơ, người đọc cũng có thể cảm thấy ngay cái hào khí Đông A toát ra từ việc miêu tả một người anh hùng, một người dũng sĩ thời Trần. Chắc hẳn, qua hình ảnh ấy, Phạm Ngũ Lão như muốn khẳng định rằng thời đại hào hùng sẽ được tạo nên bởi những con người hào hùng. Và chân dung vị anh hùng, con người hiên ngang ấy đã được ông khắc họa trong bức chân dung giữa không gian kì vĩ:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
Mới câu thơ đầu tiên thôi mà người đọc chúng ta đã cảm nhận được sự hùng dũng, lẫm liệt, vẻ đẹp của một tráng sĩ mang trong mình hào khí Đông A đang hiên ngang cầm ngang ngọn giáo dài, quyết tâm sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc của mình dù đã qua thu. Trong bản phiên âm, “hoành sóc” có nghĩa là cầm ngang ngọn giáo, thể hiện một khí phách vừa có chút tĩnh tại, an nhiên, nhưng cũng không kém phần hiên ngang, khí phách, đó là tư thế của một người tráng sĩ chuẩn bị ra trận để chiến đấu. Tuy nhiên ở bản dịch thơ, người dịch đã dịch “hoành sóc” thành “múa giáo”, đây là một hành động, một tư thế biểu diễn, nghe vừa ngang tàng, lại hơi phô trương. Tuy thế chúng ta đều có thể cảm nhận được hình ảnh của một vị tráng sĩ, tay cầm ngọn giáo dài, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Chúng ta cũng thấy được tư thế của người anh hùng ấy đang được đặt trong một không gian rộng lớn “giang sơn”, trong khoảng thời gian dài vô tận “kháp kỉ thu”. Cả một không gian thật hùng vĩ được tái hiện lại và in đậm trong đó là hình tượng của người tráng sĩ anh hùng. Không chỉ vậy, “kháp kỉ thu” còn nhấn mạnh sự dẻo dai, tinh thần chiến đấu bất khuất, quyết tâm cống hiến tận lực cho đất nước của một người binh thời Trần. m điệu vang vọng trong câu thơ cũng là một âm điệu khỏe khắn, hào hùng, đúng với cái hào khí Đông A mà Phạm Ngũ Lão đang muốn thể hiện.
Nếu như ở câu thơ đầu tiên, người đọc chỉ thấy hình ảnh của một chiến binh nhà Trần giữa giang sơn rộng lớn, thì bước sang câu thơ thứ hai, hình tượng người lính chẳng còn đơn lẻ nữa mà là cả một đoàn quân với một khí thế thật mãnh liệt:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Hình ảnh một đoàn quân anh hùng hiện lên thật hùng vĩ, thật tráng lệ biết bao. So với câu thơ đầu, hình ảnh thơ được mở rộng ra thật to lớn, ở câu một, người ta chỉ thấy toát lên hình tượng của một người lính, thì ở đây là hẳn “tam quân” với tiền quân, trung quân, hậu quân với sức mạnh như vũ bão, có thể “khí thôn ngưu” – “nuốt trôi trâu”. Phạm Ngũ Lão đã đặt ra ở trong câu thơ này một phép so sánh “tam quân tì hổ”. Ông so sánh đội quân nhà Trần “tì hổ”, phải chăng muốn khẳng định sức mạnh, sự mạnh mẽ, oai hùng của tam quân nhà Trần như là hổ, là báo. Phép cường điệu, ẩn dụ mà Phạm Ngũ Lão sử dụng đã cho thấy được sức mạnh thật to lớn của đoàn quân mang khí thế của cả một triều đại anh hùng. Với khí thế ấy, cùng sức mạnh phi thường, đội quân đó chắc hẳn có thể làm nên được những việc vô cùng lớn lao. Câu thơ miêu tả khái quát hình ảnh xung trận của những chiến binh nhà Trần, họ mang trong mình một sức mạnh to lớn, vĩ đại, một khí thế hào hùng, hào khí của thời đại Đông A.
Thế nhưng, khi đọc câu thơ này, người đọc không khỏi băn khoăn về hình ảnh “khí thôn ngưu”! Đây là hình ảnh tác giả Phạm Ngũ Lão đã dùng để miêu tả về khí thế của “tam quân” thời Trần. “Khí thôn ngưu” có thể là khí thế nuốt trôi trâu như bản dịch, đó là sự ước lệ của tác giả khi nói về những người chiến binh trẻ tuổi mang trong mình khí phách của đội quân nhà Trần. Hoặc cũng có thế “ngưu” ở đây là một vì sao trên trời, lúc này, câu thơ sẽ mang ý nghĩa về hào khí, khí thế của quân đội nhà Trần có thể át được cả sao Ngưu. Mặc dù ở đây có hai cách hiểu với hai hướng khác nhau, nhưng dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng đều đạt được mục đích là làm nổi bật lên sức mạnh của đội quân nhà Trần, khí thế hào hùng mà họ dùng khi xung trận. Hai nghĩa này không những không mâu thuẫn mà còn bổ sung cho nhau, để chúng ta có thể hiểu được tại sao một đội quân của một đất nước nhỏ bé lại có thể ba lần đánh thắng giặc ngoại xâm Mông – Nguyên đang thống trị thế giới lúc bấy giờ.
Hào khí Đông A cứ vang vọng mãi lên, sục sôi trong mỗi chiến bình với khí thế xuất trận, thế nhưng đôi khi nó lại trầm lắng, thể hiện một cách thật nhẹ nhàng, kín đáo, trong suy tư của con người. Con người dù ở thời đại nào cũng đều mong có thể trở thành một người có thế giúp ích cho non sông đất nước. Vậy nên, những người con thời Trần mang hào khí Đông A ấy trong tâm tư của mình, luôn quyết tâm lập nên công danh báo đền ơn nước. Chí khí ấy thật đáng khâm phục, thật đáng tự hào biết mấy, và Phạm Ngũ Lão đã làm nổi bật cái khát vọng lớn lao ấy của những người con nhà Trần qua hai câu thơ:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết vũ hầu”.
Cái ý chí của thân nam nhi quyết tâm lập công báo đền nợ nước đã làm nổi bật lên chí khí cao cả, cái tâm cao cả của người tráng sĩ. Đã làm thân nam nhi ở đời, đứng trong trời đất, phải quyết tạo nên được “công danh”, sự nghiệp cho thỏa cái chí làm trai ở đời. Đây là một trong những quan điểm vô cùng đúng đắn và tích cực của tư tưởng Nho giáo. Chẳng thế mà Nguyễn Trãi đã nói
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với non sông”.
Chí làm trai ở đời, “công danh” chính là một món nợ mà thân trai phải mang, phải trả cả cuộc đời. Chính vì luôn luôn tâm niệm như vậy mà cả đời Phạm Ngũ Lão luôn cống hiến không ngừng cho sự nghiệp của nhà Trần. Ông đóng góp rất nhiều trong công cuộc chống giặc xâm lăng, bình định thiên hạ. Công lao xây dựng đất nước của ông cao vời vợi đến cả vua Trần Minh Tông cũng phải tỏ lòng ngưỡng mộ. Cả cuộc đời đã cống hiến hết mình như vậy mà Phạm Ngũ Lão vẫn thấy mình chưa “trả xong nợ công danh – vị liễu công danh trái”, ông vẫn “thẹn” khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán. Ông luôn tâm niệm rằng những việc mình làm vẫn còn nhỏ bé, chưa thể sánh ngang với tiền nhân thiên cổ được. Tuy nhiên, cái “thẹn” ấy của người tráng sĩ chẳng những không làm ông nhỏ bé, thấp kém đi mà còn nâng tầm vị thế của ông lên với một nhân cách cao cả.
Hai câu thơ sau trùng xuống, thâm trầm như là lời kể, lời tự bộc bạch của tác giả với bao nỗi niềm ngổn ngang trong lòng. Tuy nó chỉ là một nỗi niềm riêng của ông, nhưng góp cùng với hai câu thơ đầu, chúng vẫn hòa mình để tạo nên một vẻ đẹp của khí thế thời đại, góp phần để hào khí anh hùng Đông A mãi còn vang vọng đến tận hôm nay.
Cả bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão được bao trùm bởi lòng tự hào dân tộc, bởi hào khí của con người và thời đại nhà Trần. Được thể hiện thật cô đọng và súc tích, bài thơ đã toát lên cái hào khí oai thiêng của dân tộc Việt Nam, toát lên từ một tâm hồn cao đẹp, một tấm lòng yêu nước vô cùng sâu sắc. Đọc bài thơ, người đọc chúng ta càng cảm thấy tự hào về một triều đại hào hùng trong dòng lịch sử của dân tộc ta, mới có thể hiểu tại sao ở thời đại đó, chúng ta lại có thể ba lần đánh bại đội quân Mông – Nguyên đang tung hoành khắp thế giới. Cái hào khí mà thời đại ấy thể hiện, tuy nó đã trôi qua, nhưng cái tinh thần mà nó đã thể hiện thì còn vang vọng mãi tới tận ngày nay. Thế hệ chúng ta kế tiếp hào khí anh hùng ấy bằng những dấu son chói lọi trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Và chúng ta càng không thể quên hình ảnh người tráng sĩ chí lớn – Phạm Ngũ Lão, văn võ song toàn, biểu tượng cho bậc trai tráng, cho người chiến binh của thời đại mang hào khí Đông A quyết thắng ấy.
Bài thơ với thể thơ đường luật cổ, với những hình ảnh ước lệ, so sánh, ẩn dụ , giọng thơ thật hùng tráng, mạnh mẽ, mang phong vị của người chiến sĩ anh hùng. “Thuật hoài” sẽ mãi là bài ca, là tấm lòng của người tướng quân cả cuộc đời vì dân vì nước với lý tưởng và nhân cách cao cả. Thế hệ con cháu chúng ta phải luôn biết rèn luyện nhân cách sống có lý tưởng, có ý chí, quyết tâm thực hiện lý tưởng để không thẹn với thế hệ đi trước, với hào khí anh hùng mà dân tộc ta đã thể hiện qua bao tháng năm qua.
Trong lịch sử nước nhà, thời đại nhà Trần là một trong những thời đại lịch sử phát triển nhất. Không thể phủ nhận những thành tựu mà quân dân nhà Trần làm cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực văn hóa, chính trị, quân sự, kinh tế hay tôn giáo…Nhắc đến nhà Trần là nhắc đến hào khí Đông A. Đặc biệt hào khí ấy không chỉ được nhắc đến trong lịch sử mà nó còn được nhắc đến qua bài thơ Tỏ lòng của vị tướng quân tài ba Phạm Ngũ Lão. Đồng thời qua bài thơ này, nhà thơ cũng muốn thể hiện nỗi “thẹn” của mình.
Vậy hào khí Đông A là gì?. Thông thường người ta hay biết đến hào khí Đông A nhưng lại chưa thực sự hiểu ý nghĩa của nó. Hào khí Đông A có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất là đây là triết tự của nhà Trần, chữ Đông và chữ A ghép lại để chỉ thời đại nhà Trần. Tuy nhiên nó còn một ý nghĩa sâu xa hơn, như chúng ta đã biết nhà Trần là một thời đại hợp lòng nhất từ trên xuống dưới, từ quân đến dân, từ nhà vua đến dân chúng. Hào khí Đông A thể hiện rõ ý chí trăm lòng như một của vua dân nhà Trần. Với ý chí quyết tâm không khuất phục, họ đồng lòng đồng thuận với nhau trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Và họ đã làm nên chiến thắng ba lần với giặc Nguyên Mông.
Bài thơ Thuật hoài thể hiện rõ hào khí Đông A thời Trần. Hai câu thơ đầu là tiêu biểu cho sự thể hiện đó:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”
“Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”
“hoành sóc giang sơn” có nghĩa là cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ đất nước. Thời nhà Trần phải chống lại kẻ thù nguy hiểm nhất, mạnh nhất thời bấy giờ. Giặc Nguyên Mông bấy giờ hung hãn và dã man nhất, vó ngựa của chúng đi tới thảo nguyên nào thì thảo nguyên đó không còn một ngọn cỏ. Sức càn quét và xâm chiếm của chúng khiến cho nhiều nước khác phải kinh sợ. Thế nhưng đất nước ta phải đối mặt với những tên giặc nguy hiểm này thì quân dân nhà Trần không hề sợ sệt. Trên dưới một lòng bảo vệ đất nước giang sơn. Ngọn giáo giống như quốc bảo của người quân tử thời Trần, nó được đo bởi chiều rộng và chiều cao của đất nước. Sứ mệnh của quân dân nhà Trần là bảo vệ đất nước, từ bấy lâu nay vẫn thế há gì gặp giặc ngoại xâm nguy hiểm nhất lại phải chùn bước.
Câu thơ thể hiện ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước và người quân tử thời Trần tự ý thức được trách nhiệm của mình với đất nước. Chính bởi đồng lòng cho nên ba quân của nhà Trần mạnh mẽ như hổ báo, khí thế át cả sao Ngưu trên trời. Khí thế ấy tưởng chừng có thể nuốt hết một con trâu lớn. Hai câu thơ thể hiện sự hào hùng, bất khuất của quân đội nhà Trần. Đó chính là sự thể hiện của hào khí Đông A.
Nếu hai câu thơ đầu, nhà thơ thể hiện hào khí Đông A của một thời đại đầy hào hùng thì đến hai câu thơ cuối nhà thơ bày tỏ nỗi “thẹn” của mình:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
Xưa kia, sinh thời phận làm trai thì phải có công danh và sự nghiệp. Một người nam nhi chân chính là phải có danh với núi sông, có công với đất nước. Chỉ có như thế mới xứng đáng là phận nam tri đầu đội trời chân đạp đất. Cái nợ công danh của nhà thơ vẫn còn trong khi ông đã từng đánh nam dẹp bắc, chặn biết bao nhiêu con đường của giặc đi. Phạm Ngũ Lão – một vị tướng tài ba của nhà Trần thế nhưng ông vẫn khiêm tốn về công danh của mình với vua, với nước. Ông “thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu bởi vì Vũ Hầu cũng là phận bề tôi như ông. Nhưng Vũ Hầu làm được nhiều việc có công lớn với đất nước với vua hơn. Chính vì thế mà dù Phạm Ngũ Lão tài giỏi và hết lòng vì đất nước nhưng bản thân nhà thơ vẫn không cảm thấy hài lòng với những gì mình đã làm. Theo nhà thơ, có lẽ bấy nhiêu thôi chưa đủ để gọi là công danh với đất nước.
Qua đây ta có thể thấy rõ được hào khí Đông A thời nhà Trần và nỗi thẹn của người quân tử, người tướng quân hết lòng ra sinh vào tử vì vua vì nước. Có thể nói hào khí Đông A là yếu tố cơ bản làm nên ba lần chiến thắng giặc nguyên Mông. Đồng thời ta có thể thấy được tấm lòng của vị tướng quân tài ba với đất nước mình. Dẫu có bao nhiêu chiến công hiển hách, Phạm ngũ Lão vẫn thấy chưa đủ để phục vụ cho vua và cho đất nước.
Thời đại nhà Trần 1226 – 1400 là mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta bởi đã có ba lần đánh tan quân Nguyên – Mông. Do vậy, thơ văn thời nhà Trần là tiếng nói của anh hùng – thi sĩ với cảm hứng sáng tác mãnh liệt. Trong đó “Thuật hoài” hay “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão là bài thơ thể hiện niềm tự hào của chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Qua đó, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được hào khí Đông A của một thời lịch sử hào hùng.
Nói tới hào khí Đông A là nói tới hào khí chiến đấu của thời đại nhà Trần. Thời Trần (1226 – 1400) là thời kỳ xây dựng đất nước Đại Việt trên cơ sở ý thức tự lập, tự cường dân tộc. Ba lần quân Nguyên Mông sang xâm lược thì ba lần đại bại. Dưới thời đại nhà Trần, quốc thái dân an, thái bình thịnh trị
Thời vua Thái Tổ Thái Tông
Lúa mọc đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”
Hào khí Đông A là nói tới hào khí thời Trần, do chữ “Trần” gồm bộ A và chữ “Đông” hợp thành. Tuy vậy, hào khí Đông A còn là gợi hào khí của cả một thời kì, từ thế kỉ X cho đến hết thế kỉ XIV. Biểu hiện của hào khí Đông A đó là tinh thần tự lập, tự cường; là lòng yêu nước; khát vọng lập công danh và ý thức quyết chiến quyết thắng kẻ thù. Trong bài thơ, hào khí Đông A được thể hiện sâu sắc.
Bài thơ “Tỏ lòng” được sáng tác năm 1282 khi quân Nguyên lấy cớ mượn đường đánh Chiêm Thành nhưng thực chất là xâm lược nước ta. Trước tình hình ấy, vua Trần đã mở hội nghị ở Bình Than (sông Lục Đầu) bàn kế hoạch đánh giặc. Phạm Ngũ Lão cùng một số vị tướng được cử đến biên ải phía Bắc để trấn giữ đất nước. Với hoàn cảnh lịch sử ra đời, bản thân tác phẩm đã mang đậm tính thời đại, thể hiện âm vang hào khí.
Trước hết, hào khí Đông A được thể hiện qua tư thế hành động của người con trai Đại Việt.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
(“Múa giáo non sông trải mấy thu”)
Phạm Ngũ Lão tái hiện không khí đoàn quân Sát Thát ra trận trong tư thế hùng dũng và điệu nghệ “Hoành sóc”. Binh lính nhà Trần điều khiển cây giáo thuần thục tới mức nhà nghề, trở thành nghệ thuật. Hơn nữa, hình ảnh ấy còn đặt giữa không gian “giang sơn” và thời gian “kháp kỷ thu” như càng khẳng định khí thế của đội quân có sức mạnh kết tinh ngàn năm giữa đất trời rộng lớn.
Hào khí Đông A thể hiện qua khí thế xung trận của quân đội thời Trần
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(“Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”)
Quân đội nhà Trần mang khí thế của mãnh thú săn mồi. Hình ảnh tương quan lực lượng giữa ta với địch thể hiện rõ qua tương quan giữa loài hổ lớn với con trâu mộng. Quân ta như chúa tể sơn lâm, có dũng có mưu còn quân địch như con trâu mộng to khỏe nhưng kém khôn. Quân ta hoàn toàn áp đảo bởi khí thế “nuốt trôi trâu”, nuốt chửng cả con trâu lớn. Hình ảnh ẩn dụ khiến ta nghĩ tới thơ Trương Hán Siêu:
“Thuyền bè muôn đội
Tinh kì phấp phới
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói”.
Hào khí Đông A còn thể hiện qua khát vọng độc, lập công lập danh để cứu nước cứu đời và tinh thần trách nhiệm đối với giang sơn xã tắc.
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ Hầu)
Phạm Ngũ Lão bàn tới lí tưởng nam nhi để khẳng định nghĩa vụ cống hiến cho Tổ quốc. Phạm Ngũ Lão mượn một chữ “thẹn” để nói lên nỗi lòng chưa thể thỏa mãn được “chí làm trai”, chưa trả được món “nợ” lớn cho dân tộc.
Bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão đã thể hiện thành công hào khí Đông A lừng lẫy một thời trong lịch sử dân tộc. Qua đây, ta thấy được lòng yêu nước và tư tưởng tiến bộ của nhà thơ.
Thông qua dàn ý và một số bài văn mẫu Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy tiêu biểu được Top lời giải tuyển chọn từ những bài viết xuất sắc của các bạn học sinh. Mong rằng các em sẽ có khoảng thời gian vui vẻ và hữu ích khi học môn Văn!