/tmp/qumwh.jpg
Một người rất hiểu và rất yêu thơ Xuân Diệu trước Cách Mạng là nhà phê bình Hoài Thanh đã từng nhận xét rằng “ Nhà thơ ấy đã thể hiện đúng tâm hồn mình, đúng là mình nhất khi viết ra những dòng thơ diễn tả những rung động tinh tế, mong manh, mơ hồ, những rung động không dễ gọi tên và càng không dễ gì nắm bắt “, ví dụ như:
Nội dung bài viết
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Những nhận xét ấy chắc hẳn phải có căn cứ, có cơ sở. Tuy nhiên, với phần lớn độc giả, Xuân Diệu trước hết vẫn là thi sĩ của lòng đam mê nồng cháy, của tình yêu cuồng si đối với cuộc đời, một con người muốn được giao cảm, giao hoà hết mình cùng tạo vật. Người đã kêu lên tiếng gọi tha thiết, giục giã về sự sống gấp để tận hưởng hết những lạc thú của cuộc đời. Và nếu phải kể một bài thơ tiêu biểu nhất cho một hồn thơ như thế, thì chắc trong chúng ta không ai không lập tức nhớ ngay đến một bài thơ – “ Vội vàng “.
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Tôi sung sướng.
Xúc cảm vội vàng dường như đã được thể hiện ở khổ đầu tiên của bài thơ : khổ thơ năm chữ duy nhất trong bài thơ mà phần lớn là những câu thơ tám chữ. Thể loại thơ tám chữ gợi cho ta nghĩ đến cách nói vốn có của ca trù và cách sử dụng của Xuân Diệu cùng thể hiện một nét mới của thơ mới. Còn cách đặt những câu thơ ngắn trong trường hợp này làm nên giọng điệu gấp gáp giống như một hơi thở hối hả của một con người đang tràn đầy cảm xúc. Mặt khác, Xuân Diệu đã đặt ở đầu tiên những câu lẻ hai chữ “ tôi muốn ”, và chủ đề trữ tình lập tức xuất hiện. Nhà thơ thể hiện cái tôi công khai, ngang nhiên không lẩn tránh hay giấu giếm, cái tôi đầy thách thức, đi ngược lại với thơ ca trung đại, nơi rất ít dám thể hiện cái Tôi. Cách nhà thơ công nhiên khiêu khích thẩm mĩ thơ của thời đại trước, chính là để thể hiện cái tôi trong một khao khát lớn lao, cái tôi muốn đoạt quyền tạo hoá để làm những việc mà chỉ tạo hoá mới làm được như “ tắt nắng đi “ và “buộc gió lại “. Nhưng trong cách diễn đạt của nhà thơ thì “tắt nắng” và “buộc gió” không phải là ý muốn cuối cùng, vì những câu chẵn của khổ thơ đều bắt đầu bằng một chữ “cho”.
Cho màu đừng nhạt mất,
……
Cho hương đừng bay đi.
Khát vọng ngông cuồng kia cũng xuất phát từ mong muốn giữ lại cái đẹp đẽ cho sự sống. Những câu thơ gợi cảm giác lo âu rằng cái đẹp sẽ giảm hương sắc đi, màu nắng sẽ bớt rực rỡ nếu nắng cứ toả, và làn hương kia sẽ bớt nồng nàn nếu gió cứ bay. Nhưng mong muốn càng trở nên thiết tha hơn khi nhà thơ dùng đến hai lần chữ “đừng” – chứa đựng một nguyện vọng thiết tha. Từng chữ một của bốn câu thơ đều nói lên nỗi ham sống đến vô biên, tột cùng đến trở nên cuồng si, tham lam, muốn giữ lại cho mình và cho đời vẻ đẹp, sự sống ở trong tạo vật.
Câu thơ thứ năm đang từ nhịp điệu gấp gáp của những dòng năm chữ, thì đột ngột đổ tràn ra trong những dòng tám chữ. Một sự chuyển đổi rất đẹp của bài thơ, làm trải ra trước mắt người đọc một bức tranh xuân tuyệt diệu. Trong bốn dòng thơ ấy đầy ắp những tiếng “này đây” rải ra khắp các dòng thơ, vừa trùng điệp vừa biến hoá. Những câu thơ gợi hình dung về một con người đang mê man, đắm đuối, cuống quýt trước mùa xuân đang trải ra cuộc đời. Đó không chỉ là một bức tranh xuân, xuân sắc, xuân tình mà còn là cách để tác giả nói đến cái mê đắm về một mùa xuân của tuổi trẻ, của tình yêu. Vì vậy, không có một loài vật nào khác ngoài “ong bướm, yến anh”, bởi nó gợi ra vẻ lả lơi, tình tứ,và “bướm lả ong lơi “ gợi ý niệm về mùa xuân và tình yêu. Khúc nhạc của tình yêu, và hơn thế, “của tình si”, gợi nên sự mê đắm. Bên cạnh đó, chữ “của” trở đi trở lại cùng với “này đây” như một cặp không thể tách rời. Đó là cách để Xuân Diệu biểu hiện cảm xúc trước thiên nhiên luôn có sự kết đôi, mọi vật quấn quýt lấy nhau, là của nhau không thể tách rời. Tất cả đều mang vẻ đẹp của sự trẻ trung và sức sống. “ Hoa “ nở trên nền “ xanh rì “ của đồng nội bao la, “lá ” của “ cành tơ ” đầy sức trẻ và nhựa sống. Cảm giác non tơ, mơn mởn ấy lại được tôn lên trong sự hiệp vần “ tơ phơ phất ” ở sau. Và như thế, cuộc sống hiện ra trong hình ảnh của một vườn địa đàng, trong xúc cảm của một niềm vui trần thế. Giá trị nhân văn của những câu thơ và cả bài thơ chính là ở đó.
Nếu như bốn câu thơ trên có vẻ như đã cân xứng, hoàn chỉnh rồi, thì câu thơ thứ chín xuất hiện bằng ba chữ “ và này đây ”, như thể một người vẫn còn chưa thoả, chưa muốn dừng lại, trong cảm xúc đầy tiếc nuối muốn giăng bày cho hết niềm vui được sống. Nhưng đây không còn là những hình sắc cụ thể như “lá, hoa, ong bướm “ mà trừu tượng hơn là ánh sáng, niềm vui, thời gian – những vật thể không hữu hình. Đó cũng là cách để nhà thơ bộc lộ quan điểm thẩm mĩ mới mẻ và thú vị . Thiên nhiên đã thôi không còn là chuẩn mực của vẻ đẹp trong quan niệm của Xuân Diệu. Vẻ đẹp của thiên nhiên chỉ được coi là đẹp khi mang dáng dấp của vẻ đẹp con người. Ánh sáng đẹp vì gợi ra liên tưởng về “hàng mi” của một đôi mắt đẹp. Niềm vui đẹp vì gợi ra liên tưởng về một vị thần, đại diện cho con người. Và xúc cảm thẩm mĩ được nâng lên trong câu thơ về tháng giêng, gợi nên vẻ đẹp của sự táo bạo, cuồng nhiệt, làm người đọc thơ phải sửng sốt.
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Mùa xuân hiện ra trong sức gợi cảm kì lạ bởi một vẻ đẹp như đang đợi chờ , đang sẵn sàng dâng hiến. Vì thế, mùa xuân như sinh ra cho con người tận hưởng, cho hạnh phúc đến với con người, làm nên một khía cạnh khác nữa của tinh thần nhân văn của bài thơ. Ở đó, cái quí giá, đẹp đẽ nhất của con người lại là chính con người. Vì vậy, con người là thực thể cao nhất, chứ không phải là thiên nhiên, là tôn giáo hay một chuẩn mực đạo đức nào. Con người trong câu thơ này đã được tôn lên làm chuẩn mực thẩm mĩ, làm cho người đọc ngạc nhiên, sửng sốt. Tác giả đưa ra ý niệm về một tháng trẻ trung nhất của một mùa trẻ trung nhất trong năm : “ tháng giêng “. Nhưng sự bất ngờ lại đến từ chữ thứ ba – “ngon”, điều mà ít ai có thể ngờ. Và càng không ai có thể nghĩ rằng tác giả lại so sánh với “cặp môi gần”. Nhưng có được sự so sánh ấy thì thời gian trừu tượng mới trở nên gần gũi, do vậy mùa xuân hiện lên trong cảm xúc của một tâm hồn đang thèm khát tận hưởng. Vẻ đẹp của mùa xuân như đã bị hoàn toàn chiếm hữu.
Hình ảnh so sánh ấy như một người đang đợi chờ, sẵn sàng dâng hiến cho tình yêu. Và hẳn phải có một tình yêu thật nồng nàn với cuộc đời thì tác giả mới tạo ra được một hình ảnh lạ kì đến thế.
“Tôi sung sướng”
Những tiếng tất yếu được thốt lên sau tất cả những gì viết ở trên. Nhưng sau ba chữ ấy lại là một dấu chấm ở giữa câu, khiến cho niềm sung sướng ấy như bị ngắt lại, chặn lại giữa chừng để trở thành một niềm vui dở dang, không trọn vẹn. Bởi sau dấu chấm là một chữ “ nhưng “ dự báo một cảm xúc hoàn toàn mới lạ. Cái ám ảnh của sự vội vàng xuất hiện ở nửa sau . Nhà thơ dường như không thể tận hưởng hết được mùa xuân vì cái cảm giác hoài xuân ngay khi mùa xuân chưa hết. Và cảm xúc của nhà thơ đã đi sang một phía ngược lại, xuất hiện một phản đề :
Nhưng vội vàng một nửa.
Ai đã được nghe hai câu đầu của sự phản đề cũng đều có ấn tượng sâu sắc.
Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Sự mới mẻ, táo bạo, sự phát hiện lớn nhất của hai câu thơ lại được nằm ở hai chữ tưởng như rất bình thường “ nghĩa là “, khiến cho câu thơ mang dáng dấp của một đẳng thức nghệ thuật. Tác giả đã mạnh bạo đặt một dấu bằng ở hai vế tưởng như trái ngược nhau :“đang tới” đối với “đang qua”, “non” nghịch với “già”. Cách nói đầy ấn tượng như thế làm nên sự trôi mau vô cùng của thời gian. Điều ấy càng có ý nghĩa với một người mà sự sống đồng nghĩa với tuổi xuân, được thể hiện với đẳng thức thứ ba:
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Ở đây mùa xuân còn là chỉ mùa của tình yêu, tuổi trẻ. Xúc cảm ấy khơi nguồn cho một loạt những câu tiếp theo.Nhà thơ như muốn đảo ngược lại hết những quan niệm thông thường:
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật.
Bây giờ đối tượng của “rộng” không còn là trời đất mà là cá nhân “tôi”, và cái bé nhỏ không còn là con người, mà lại là “trời đất”. Song điều đáng nói lại là cái gì đã qua đi thì sẽ không bao giờ trở lại. Nhà thơ đang nhìn cái nhìn nhân danh cái tôi, cất lên lời oán trách, lo lắng đôi với tự nhiên và tạo hoá.
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Trời đất có nghĩa gì đâu khi tuổi trẻ của tôi không kéo dài. Mùa xuân tuần hoàn có nghĩa gì đâu khi tuổi xuân của tôi không tuần hoàn. Nhà thơ đã đem cái khát khao vô cùng của tuổi xuân tạo nên cho bài thơ sự mới mẻ.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc.
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi.
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi.
Hình ảnh của gió, của chim quay trở lại, nhưng lại không mang ý nghĩa về vẻ đẹp nồng nàn của sự sống như ở phần đầu. Những hình ảnh ấy bây giờ đều nhuốm vẻ luyến tiếc, chia phôi. Gió vẫn đẹp đến mê hồn – “thì thào trong lá biếc” nhưng vẫn bay đi. Chim vẫn hót như một “khúc cuồng si “ nhưng lại báo trước một sự phai tàn. Những điệp khúc ấy dâng lên thành một nỗi ám ảnh:
Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…
Nhưng con người ham sống trong Xuân Diệu không dễ dàng khuất phục sự sắp đặt của tạo hoá, chính vì vậy cái “tôi” đã tìm ra được phương hướng để giải quyết một vấn đề không dễ gì giải quyết – đó là cách sống “vội vàng”. Nếu không thể kéo dài được trường độ sống thì nhà thơ đề nghị tăng tốc độ và cường độ sống. Vì thế, đề từ của đoạn thơ bắt đầu bằng một hiệu lệnh của sự giục giã, vội vàng.
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và mây, và cỏ rạng;
Cho chuếnh choàng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng.
Cho no nê thanh sắc của trời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.
Những chữ “muốn” ở đầu bài thơ quay lại, nhưng nhiều hơn, dồn dập hơn, cuống quýt hơn. Mà bây giờ “muốn” không còn là của “tôi” mà là của “ta”. Sự vội vàng kích thích con người lớn rộng hơn để có thể ôm choàng cả cuộc đời. Bằng cách ấy, “ta” được hình dung như một cơ thể của một người vô cùng thân thiết, mến yêu, một thân thể mang vẻ trẻ trung đến mơn mởn, đến rạng ngời, nồng thắm, và nhà thơ viết “cỏ rạng, xuân nồng”. Tác giả dường như muốn được tận hưởng hết cuộc đời đẹp đẽ trong những cử chỉ mãnh liệt, nồng nàn nhất, mỗi lúc một tăng lên : “ôm – riết – thâu trong một cái hôn nhiều “.Điều ấy thể hiện một Xuân Diệu muốn hưởng thụ mùa xuân như một bữa tiệc đời, để được “chuếnh choáng, đã đầy, no nê “. Và câu thơ cuối được xem như táo bạo nhất trong những câu thơ táo bạo:
Hỡi xuân nồng, ta muốn cắn vào ngươi.
Câu thơ biểu lộ một trạng thái tột đỉnh của niềm yêu mến mùa xuân và cuộc sống này.
Ý thơ của Xuân Diệu có lẽ cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều một ý thơ của nữ thi sĩ Pháp, Anna de Nowai. Bởi nhà thơ như cũng muốn để lại dấu răng của mình trên trái táo thời gian.
Vội vàng – trái cấm ái tình giữa vườn xuân trần thế
Triết lý sống ‘Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm’ bề ngoài mang màu sắc của chủ nghĩa hiện sinh nhưng bên trong lại thấm đẫm tinh thần nhân văn ở mọi thời đại. Vội vàng chưa phải là bài thơ hay nhất nhưng kết tinh nhiều nhất tư tưởng nghệ thuật của Xuân Diệu. Tứ thơ lan tỏa trên diện rộng: lấy hạt nhân là phút huy hoàng của tuổi trẻ, nhà thơ tạo ra cả một vũ trụ thi ca ngập tràn hương sắc của tình yêu, hạnh phúc.
Cảm hứng thơ khởi động từ một ảo tưởng lãng mạn: ‘tắt nắng’, ‘buộc gió’ để chặn đứng dòng thời gian đưa ‘hương’, ‘màu’ của mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu vào cõi vô hạn. Ảo tưởng lãng mạn của cái tôi cá nhân có thể tạo ra thứ huyền thoại mới của con người hiện đại. Sự sống như ngưng đọng lại trong phút huy hoàng nhất: ‘tháng Giêng’, khởi đầu của mùa xuân, ‘sáng sớm’, khởi động của một ngày. Đó cũng là giờ phút ‘Thần Vui mở cửa’, khơi nguồn một tình yêu thuần khiết. Vị Thần Ái tình của nhân loại được phục sinh nơi cuộc sống Trần thế sau cả ngàn năm ẩn trốn trong cõi mịt mờ của Thiên đàng.
Vẻ đẹp của mùa xuân: ‘ong bướm’, ‘hoa đồng nội’, ‘cành tơ’, ‘yến anh’… được quy chiếu với hương sắc của tình yêu: ‘tuần tháng mật’, ‘khúc tình si’, ‘chớp hàng mi’… Xuân Diệu đã nhìn thiên nhiên bằng con mắt ái tình và khái quát thành câu thơ cách tân táo bạo: ‘Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần’. Không phải mùa xuân của đất trời mang lại tình yêu cho con người mà chính tình yêu của con người mang lại mùa xuân bất tận cho thế gian: ‘Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi/Trong vườn thơm ngát của hồn tôi’.
Không tắt được nắng, buộc được gió, nói như Văn Cao: ‘Thời gian qua kẽ tay/Làm úa những chiếc lá…’, Xuân Diệu làm một cuộc chạy đua theo thời gian để đuổi bắt hương màu của tình yêu sự sống, biến ảo tưởng thành hiện thực. Cuộc chạy đuổi này có cơ sở từ trong sức mạnh của ‘cái tôi’ tự do giải phóng. Nó đoạn tuyệt với lối sống ung dung nhàn hạ và khuôn sáo của người xưa: ‘Đi đâu mà vội mà vàng/Mà vấp phải đá mà quàng phải dây’ hay ‘Nhất nhật thanh nhàn nhất nhật tiên’. Không có lẽ tuần hoàn của mùa xuân hay sự tái sinh của tuổi trẻ để con người mơ mộng tình yêu, hạnh phúc nơi thế giới khác. Chính cái giới hạn ngắn ngủi của cuộc đời trần thế lại sinh ra cõi vô hạn trong khát vọng tình yêu của con người. Nhà thơ tự phóng đại mình lên với mãnh lực: ‘ôm’, ‘riết’, ‘say’, ‘thâu’ cho ‘chuếnh choáng’, ‘đã đầy’, ‘no nê’… tận hưởng những gì đang hiện hữu của mùa xuân tuổi trẻ: ‘mây đưa’, ‘gió lượn’, ‘cánh bướm’, ‘tình yêu’, ‘một cái hôn nhiều’…
Bản giao hưởng Vội vàng cất lên cao trào và treo lửng lơ bằng một câu thơ cũng đầy thách thức: ‘Hỡi Xuân Hồng ta muốn cắn vào ngươi!’. Tứ thơ vượt lên trên thứ cảm xúc nhục thể thường tình, thăng hoa vào tận cùng cội nguồn văn hóa thẩm mỹ của nhân loại. Hình ảnh ‘Xuân Hồng’ và động từ ‘cắn’ gợi Trái cấm ái tình mà Adam và Eva đã ăn khi quyết định từ giã Thiên đàng. Với Kinh Thánh, giờ phút ăn Trái cấm ái tình của Adam và Eva đánh dấu cho tội lỗi đầu tiên của nhân loại, nhưng với các nhà văn hóa Phục hưng và Khai sáng, đấy lại là giờ phút huy hoàng nhất, bởi vì từ giờ phút này loài người mới thực sự biết yêu và có trí tuệ, cảm nhận đầy đủ dư vị của hạnh phúc làm người. Tình yêu mang lại phép mầu nhiệm thiêng liêng giúp cho loài người sinh sôi nảy nở vô tận, cõi hữu hạn mong manh của kiếp người trở nên vô hạn.
Vội vàng đạt đến chiều sâu những giá trị nhân văn hiện đại, mở ra một hệ thẩm mỹ mới trong thi ca Việt Nam hiện đại: con người là kiểu mẫu của muôn loài, vẻ đẹp của thế gian.
Xuân Diệu là “Nhà thơ mới trong các nhà thơ mới”. Ông được đọc giả yêu mến nhất là thơ. Điều khiến thơ Xuân Diệu trở thành loại thơ mới lạ, được yêu mến đó là những quan niệm mới mẻ trong thơ ông. Đặc biệt trong đó là quan niệm về thời gian vội vã. “Cái động thái bộc lộ thần thái đầy đủ nhất của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng”.
Trong Thi nhân Viêt Nam , Hoài Thanh đã nhận định rằng: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, cuống quýt ” . Thật vậy, “Vội vàng” được đánh giá là thi phẩm đặc sắc nhất không chỉ trong tập Thơ Thơ mà còn trong cuộc đới sáng tác của Xuân Diệu. Bài thơ chính là những nhịp đập sôi nổi, hăm hở với khao khát được làm chủ thời gian, làm chủ những khoảnh khắc tươi mới của cuộc sống. Trong đó, những tư tưởng , những ý niệm đã được tác giả phô bày thật thuyệt phục, sắc đáng khiến “Vội vàng” trở thành một áng chính luận trữ tình , “một tuyên ngôn bằng thơ về quan niệm sống”.”Có lẽ không phải thơ đang minh họa cho triết học mà chính là minh triết của một hồn thơ”.
Khác với những nhà thơ luôn ước muốn được ” nên tiên” , được thoát khỏi cuộc sống thế tục chán chường. Điển hình như Tản Đà có lời thơ “Cung Quế có ai ngồi đó chửa/ cành đa xin chị nhấc lên chơi”. Phần Xuân Diệu, ông lại khao khát đến tột độ được trẻ mãi với thời gian .Điều đó đã sớm được bộc lộ ở đầu bài thơ.
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Tác giả muốn “tắt “, muốn “buộc”, những động thái mang sắc thái tiêu cực, khiến ta tưởng chừng như ước muốn ấy thật phũ phàng. Vả lại , “tắt “đây là “tắt nắng”, ” buộc ” đây là “buộc gió”. Tác giả muốn làm chủ những thứ vốn thuộc về thiên nhiên, là cái vĩnh hằng, bất di bất dịch. Chính những điều trên càng khiến ước muốn của tác giả vừa thật phũ phàng vừa thật phi lí. Song để ý kĩ hơn, ước muốn ấy của tác giả lại xuất phát từ “Cho hương đừng nhạt mất”,”cho gió đừng bay đi”. Chính điểm xuất phát này đã làm tỏ niềm yêu mãnh liệt của thi nhân với đất trời. “Cho”,”đừng”, những từ ngữ mang sắc thái khẩn khoản, cầu xin. Thật vậy, nếu chẳng yêu quý, trân trọng cái “màu ” cái “hương” là những tinh túy của cuộc sống , tác giả đã chẳng mong ước mãnh liệt đến độ ước muốn ấy có vẻ phũ phàng , phi lí. Ngay từ điệp từ “Tôi muốn” được lặp lại hai lần đã tạo cái dấu ấn mạnh mẽ ,nhấn mạnh cái tôi chủ quan với những khát vọng tột độ, luôn chủ động trước cuộc đời.
Tác giả mong muốn vô cùng được nắm giữ thiên nhiên là vì yêu thiên nhiên .Vậy tác giả yêu thiên nhiên là do đâu? Điều này được tác giả trả lời ngay trong những lời thơ
Của ong bướm này đây tuần tháng mật ,
Này đây hoa của đông nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh mắt chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như mật cặp môi gần
Liên từ “của” ở đầu câu tạo nên một sự chuyển ý thật tinh tế. Vậy , cái “màu ” mà tác giả xin cho “đừng” nhạt mất ấy là sắc hoa tươi tắn trên “đồng nội xanh rì”,là nét phớt nhẹ của “lá” trên”cành tơ “, là cái ánh bình minh tựa tia sáng từ “ánh mắt chớp hàng mi” của người thiếu nữ , là âm thanh của lứa đôi “yến anh” và “hương” mật ngọt của”ong bướm”, của niềm vui ” mỗi buổi sớm”.Dưới cặp mắt xanh non của tác giả cuộc sống ngọt ngào như những gì tình yêu thuở ban sơ, thơm ngát và khoe sắc như hoa mọc giữa “động nội”, mềm yếu, nhẹ nhàng như “cành tơ” , say đắm ,tình tứ như “khúc tình si” và dịu dàng như cái chớp mắt của người thiếu nữ. Đặc biệt , “này đây” được lặp lại với mật độ dày đã nói lên cái sung sướng, cái hân hoan của tác già trước bức tranh thiên nhiên thơ mộng . Không phải là trong quá khứ, không phải là tương lai, mà chính là “này đây” ngay lúc này , ngay tại nơi tác giả đang hiện diện, chẳng ở đâu xa xôi. Chính điều này đã đẩy niềm xúc cảm của tác giả lên cao trào. Những thứ đã nằm sẵn trong tầm tay ta thì khiến ta nhàm chán, những thứ quá xa xôi thì khiến ta “ngại” không muốn cố bắt lấy nhưng “này đây” , thiên nhiên tuy rộng lớn song lại ở ngay bên tác giả khiến tác giả càng muốn bắt lấy nó hơn. Nếu trong văn học trung đạị, thiên nhiên chính là thước đo cái đẹp như “Làn thu thủy, nét xuân sơn” của Nguyễn Du thì với Xuân Diệu ,con người mới chính là chuẩn mực của nét đẹp. Rõ ràng nhất chính là lời thơ với cách so sánh vô cùng táo bạo
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tác giả cảm nhận mùa xuân một giác quan hết sức đặc biệt ,vị giác. “Ngon” ở đây gợi lên cái cảm giác tận hưởng ,đó là nét rất Xuân Diêu; “Em 15 tuổi. em tuổi hai mươi/đừng để mất một cái gì mà không hưởng”.Với “cặp môi gần” đã đem lại cảm giác quyến rũ, say đắm cô cùng. Tháng giếng đây là tháng đầu năm chính là hoán dụ của mùa xuân mà mùa xuân lại là ẩn dụ cho tuổi trẻ. Với tác giả, cuộc sống thật đẹp, thật quyến rũ với cái tận hưởng của tuổi trẻ năng động với cái say đắm của tình yêu. Tuy nhiên, thơ Xuân Diệu đặc biệt bởi hầu như mọi tác phẩm của thi nhân luôn tồn tại hai cảm xúc. Thật vậy, sau cảm xúc thăng hoa trước cái đẹp say đắm, quyến rũ của cuộc đời thì tác giả lại lắng lòng mình qua lời thơ:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
Câu thơ trước với dấu chấm giữa câu cùng nhịp thơ 3/5 như một khắc ngập ngừng suy tư. “nắng hạ mới hoài xuân” là chiều hướng thường thấy của con người. Nhưng ở đây ,bởi cách sống “Giục giã”, tác giả nuối tiếc ngay khi xuân vẫn xanh mơn mởn . Và một lần nữa, thái độ sống vội vàng được tác giả khẳng định rõ ràng . Đồng thời , việc lấy những thái độ thường tình của con người để khẳng định thái độ của bản thân đã làm cho câu thơ mang tính khái quát cao . Với Xuân Diệu sống là phải tận hưởng, phải sống hết mình trong giây phút hiện tại. Một lần nữa ta lại phải đặt ra một câu hỏi :tại sao phải sống tận hưởng và hết mình ở giây phút hiện tại? Để trả lời cho câu hỏi này có lẽ là phải xuất phát từ quan niệm về thời gian của tác giả Xuân Diệu thể hiện những lời thơ:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Đối với các tác gia thời kì trung đại, họ luôn quan niệm rằng con người tồn tại cùng vũ trụ cùng với dòng luân hồi của con người và sự tuần hoàn của thiên nhiên. Trong tác phẩm nổi tiếng của Mãn Giác Hồi Sư có câu “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền lạc dạ nhất chi mai”.Vậy nên, phong thái về thời gian của văn học thời ấy là rất đỗi chậm rãi, bình thản, ung dung. Tuy nhiên, riêng với Xuân Diệu _”Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới ” thì khác.”Mau đi chứ, vội vàng đi với chứ/ em em ơi tình non sắp già rồi”. Có thể thấy, đối với Xuân Diệu thời gian cũng như tuổi trẻ thật sự rất ngắn ngủi .Ở hai câu trước “tới” và “qua” , “non” và “già” vốn là hai từ trái nghĩa song lại nằm trong cấu trúc đẳng lập. Điều này khiến lời khẳng định rất chắc chắn của ông thể hiện ba lần điệp ngữ”nghĩa là” xét ra lại trở thành một nghịch lí. Tuy nhiên, dựa trên lối tư duy thực tế thì lời khẳng định của Xuân Diệu lại thật sự là một biện chứng sắc bén đầy sức thuyết phục.
Giữa dòng thời gian vô thủy vô chung này, đời người chỉ như một quỹ thời gian hữu hạn .Mỗi một khắc chỉ mới đây thôi nhưng ngay lập tức bị đẩy vào quá khứ không thể lấy lại .Vậy ” xuân đương tới ” hiển nhiên sẽ bị đẩy vào quá khứ. Khác với “đương”ở câu đầu ,”sẽ ” ở câu thứ hai chỉ về tương lại. Nếu câu đầu là sự nhận thức thì câu hai chính là sự lo sợ .Với Xuân Diệu, ông không chấp nhận tuổi già, cuộc sống thật sự tươi đẹp là khi nó tồn tại sự khao khát, sự tận hưởng, tình yêu nên khi tuổi xuân qua đi, mọi thứ không còn ý nghĩa nữa.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Quả thực, quỹ đời của con người là hữu hạn vậy sóng với dòng thời gian vô thủy vô chung của vũ trụ thì liệu còn ý nghĩa gì nữa .Có thể hiểu, ý thức được điều này trước tâm hồn khao khát sống của mình đã khiến cho Xuân Diệu thực sự đau lòng ,tiếc nuối; “Mùi tháng năm đều thấm vị chia phôi/ khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”.Vậy đấy, Xuân Diệu ý thức được quỹ thời gian ngắn ngủi qua đi không trở lai, ông lo lắng và trân trọng mùa xuân, tuổi trẻ, chính những điều này luôn thôi thúc ông phải hành động:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
“Mùa ” đây một phần của năm .”Chiều hôm” đây là một phần của ngày.Sự chênh lệch giữa năm với ngày càng khiến cho thời gian trở nên gấp rút hơn bao giờ hết .Và sự hối hả ấy đã làm thúc đẩy trong ông những khao khát mãnh liệt
Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và nước non, và cây và cỏ rạng.
Cho chếnh cha choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
– Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
“Ta muốn ôm”, câu thơ ngắn nhất trong bài ,chỉ vỏn vẹn ba chữ nhưng thật súc tích.
Không cần dài dòng vì cảm xúc của tác giả bây giờ đã dồn nén lại và khiến tác giả chỉ “muốn ôm”. Từ cái “tôi” riêng, giờ đây, tác giả hòa vào cái” ta” chung như để thay lời cho những con người cũng yêu đời, yêu tuổi trẻ như ông và cũng là để ta thêm hòa vào mạch xúc cảm của tác giả .Mây không bềnh bồng nhưng “đưa”, “gió” không vi vu nhưng “lượn”, “cánh bướm thì “say” với”tình yêu”. Tất cả mọi thứ vẫn luôn được tác giả nhìn với cặp mắt yêu đương, tình tứ, đầy ngọt ngào. Cũng chính vì lẽ đó mà tác giả không còn chỉ muốn “ôm” mà còn muốn”riết”,muốn “say”, muốn “thâu”, muốn “cắn”.Nnhững động từ mạnh ấy đã nói lên nỗi khát khao mãnh riệt , sôi sục trong lòng thi nhân, khát khao được đắm mình trong cái đẹp của thiên nhiên. Và từ cái hữu hình như “mây”,”cánh bướm” đến cái vô hình như “gió”, “tình yêu”, từ cái lãng mạn như”cái hôn” đến cái hùng vĩ như” nước non”, từ cái bậc cao hơn như “cây” đến cái bậc thấp hơn như”cỏ” ,tác giả đều muốn ôm vào mình.Từ đó lại một lần nữa khẵng định niềm yêu mãnh liệt muốn thâu tóm tất cả những ý vị cuộc sống vào mình.để rồi được “no nê”, được “đã đầy” .Và có lẽ, sư “tham lam” ấy thể hiện rõ ràng và mạnh vẽ nhất là ở lời thơ cuối:
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Tới đây có thể thấy Xuân Diệu giống như con ong đã hút say hương mật cũng như một tình lang đang trong mối tình si. Hình ảnh ấy đã gieo vào người đọc những khắc khoải, cảm thông và suy tư. Chu Quang Tiềm cũng đã nhận định như sau: “Ta nghe rõ nhịp đập con tim hối hả gấp gáp hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người đọc”. Quả thực, chính những lời thơ đầy súc cảm chứa chan một niềm khao khát mãnh liệt đã khiến cho người đọc cũng bị cuốn theo sự vội vã của bài thơ và cuộc sống tươi đẹp.
Qua “Vội vàng “, tác giả Xuân Diệu đã thể hiện một tình yêu say đắm, nồng nàn tha thiết đối với thiên nhiên, với tuổi trẻ. Đồng thời thể hiện những quan điểm rất riêng, rất mới về thước đo cái đẹp cũng như dòng chảy của thời gian. Đọc “Vội Vàng”, ta như hòa vào với nhịp thở của cuộc sống cũng như nhận ra và trân trọng những giá trị hiện tại.
Với những ý tưởng và phong cách thơ độc đáo, Xuân Diệu đã trở thành một tác giả nổi bật nhất của phong trào Thơ mới.
Những năm 30, Thơ mới ra đời và thực sự đã thắng thế trên văn đàn. Thế nhưng phải nói rằng chờ đến nhà thơ Xuân Diệu, người đọc mới có thể hiểu được biết ý nghĩa câu nói “một nhà Thơ mới nhất trong tất cả các nhà Thơ mới”. Sự xuất hiện của ông cùng với những “thiết tha, rạo rực, băn khoăn” đã làm nên “một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”.
– Nghị luận văn học 13 câu đầu bài Vội vàng:
Ta có thể cảm nhận được hơi thở của âm thanh và dư vị của mùa xuân qua các câu thơ đầy ý nghĩa:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Nhà thơ như muốn đoạt quyền của Tạo hóa : tắt nắng, buộc gió
Thiết tha yêu cuộc đời, Xuân Diệu muốn giữ cho hương sắc còn mãi với thời gian. Những vẻ đẹp của sắc hoa, của “đồng nội xanh rì”, của lá cành phơ phất trong gió nhẹ chính là “thiên đường trên mặt đất”, là thế giới của mùa xuân và tình yêu :
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Bút pháp nghệ thuật đặc sắc đã làm cho cái thế giới mà Xuân Diệu gọi là “sự sống mơn mởn” thêm sống động biết bao. Những liệt kê, nhấn mạnh đến năm lần chữ “này đây” cho thấy một cảm nhận phong phú, dồi dào, vô tận của vẻ đẹp thiên nhiên, đất trời. Những liên từ được dùng liên tiếp trong đoạn thơ cũng như trong toàn bài “Và này đây ánh sáng chớp hàng ”, “non nước cây và cỏ rạng ”tạo một nhịp điệu nhanh, dồn dập biểu hiện của niềm yêu sống không kiềm chế được. Xuân Diệu đã kể ra những vẻ đẹp của cuộc đời với một tình cảm yêu dấu thiết tha. Ngày tháng trong con mắt của thi nhân trở thành những “tuần tháng mật”, và những âm thanh của thiên nhiên được thể hiện như những “khúc tình si”. Vẻ đẹp của đất trời, của mùa xuân, tình yêu khiến tâm hồn thi nhân càng say đắm. Cảnh bình minh hiện lên thật độc đáo qua dáng vẻ người thiếu nữ với hàng mi dài: “ánh sáng chớp hàng mi”. Xuân Diệu đã có một sự sáng tạo mới lạ trong hình tượng thơ ấy với cảm nhận “Rặng mi dài xao động ánh dương vui”. Thiếu nữ chớp hàng mi và tỏa ra muôn luồng ánh sáng, cũng giống như hình ảnh “rặng liễu” ven hồ trong “Đây mùa thu tới” là vẻ đẹp của thiếu nữ với mái tóc buồn buông xõa. Trong không khí tình ái với “tuần tháng mật”, “Khúc tình si” và cả hàng mi dài của người thiếu nữ, hình ảnh so sánh “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” đã cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ. Câu thơ thật gợi cảm cho thấy một cái nhìn đê mê, say đắm, tình tứ trước vẻ đẹp của cuộc đời. Yêu tha thiết vẻ đẹp của mùa xuân đất trời, của tuổi trẻ, hạnh phúc nên ta hiểu vì sao Xuân Diệu có ý tướng đoạt lấy sự sống, như chạy đua với thời gian : “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa – Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Thi nhân yêu cuộc đời tha thiết như vậy nhưng bỗng nhận ra bao điều nghịch lí. Dấu chấm giữa dòng thơ với một giá trị biểu cảm đặc sắc cho thấy bao sững sờ, ngơ ngác của nhân vật trữ tình khi nhận ra những gì là tương phản, trớ trêu giữa “tôi” và cuộc đời:
Lòng tôi rộng nhưng lượng cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
“Tôi” muốn yêu cuộc đời mãi mãi nhưng cuộc đời con người lại có giới hạn, cái giới hạn nghiệt ngã “Trắm năm trong cõi người ta”. Mùa xuân của trời đất thì tuần hoàn, còn mùa xuân của tuổi trẻ thì trớ trêu thay “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi. Cuộc sống là vĩnh cửu nhưng con người, tuổi trẻ lại chẳng còn mãi. Những đối nghịch ấy khiến cho thi nhân có cảm nhận về thời gian thật độc đáo:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Ý thức mạnh mẽ về bước đi gấp gáp của thời gian,. Xuân Diệu càng có cảm nhận rõ hơn về sự chia phôi giữa cái “còn” và cái “chẳng còn”: “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”.
Thời gian đã cướp đi tuổi trẻ, hủy hoại sự sống đẹp đẽ và tình tứ này bởi “Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Thời gian đem đến sự chia lìa “sớm vị chia phôi”, “than thầm tiễn biệt”, những tiếng chim rộn ràng với “cơn gió xinh” và lá biếc cũng câm lặng, tàn phai theo năm tháng. Cái “thiên đường trên mặt đất” của thi nhân đang tràn ngập hương sắc như thế bỗng trở nên ngừng bặt khiến tâm hồn “say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời” của thi nhân phải nghẹn ngào thốt lên “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa”. Những ám ảnh thời gian ấy đã thôi thúc Xuân Diệu, ông không thể “chờ nắng hạ mới hoài xuân” mà “vội vàng, cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình”, muốn sống một cách cao độ, mạnh mẽ mỗi phút giây của tuổi thanh xuân. Hãy “mau đi thôi” trong lúc mùa thời gian “chưa ngả chiều hôm”, Trong cảm hứng mới này nhân vật trữ tình chuyển từ cách xưng “tôi” sang “ta” như muốn vượt thoát, bứt ra khỏi giới hạn của chữ “tôi” chật chội, để trở thành một “ta” khổng lồ sánh cùng trời đất. Chẳng qua đó cũng là một thái độ dứt khoát nhưng cũng thật tham lam, cuống quýt muốn đoạt lấy sự sống trong mọi chiều kích :
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
Nếu ở đoạn đầu hai chữ “này đây” cứ trở đi trở lại đến năm lần thì ở những dòng thơ trên lặp lại điệp từ “muốn” như tạo một sự tương ứng. “Ta muốn” đó là sự sống mở, vụt lớn, kiêu hãnh, tự tin thấy mình được quyền đòi hỏi, được quyền khẳng định. Thái độ ấy, tâm trạng ấy chỉ có ở thơ mới và đặc biệt mạnh mẽ trong thơ Xuân Diệu, trong khi ở “chốn nước non lặng lẽ” của những năm đầu thế kỉ XX không thể có được và “chưa từng thấy” bao giờ. Những động từ được sử dụng với tần số lớn và theo chiều hướng tăng tiến : “ôm”, “riết “, “thâu”, rồi lên tới đỉnh điểm: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người!”. Trạng thái tình cảm sôi nổi, khao khát, dồn dập thể hiện niềm “khát khao giao cảm với đời” của tác giả mỗi lúc một mạnh mẽ. Tinh yêu cuộc đời, mong muốn được “tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi” của Xuân Diệu cũng tăng lên từ “chếnh choáng”, “đã đầy” và cuối cùng là “no nê”. “Ta thấy cả nỗi cuống quýt, sáng sốt của thi nhân như với lấy nhũng giây phút đã qua, bám lấy bầu xuân hồng”. Nhận xét của nhà thơ Thế Lữ đã cho ta rõ hơn tình cảm thiết tha của Xuân Diệu dành cho cuộc đời, một niềm yêu thương, gắn bó cực kì mạnh mẽ.
Bằng niềm yêu sống và “khát khao giao cảm với đời”, Xuân Diệu đã tuyên chiến với những “ao đời” phẳng lặng và tù túng. Ông đã làm nên một cái Tôi cá nhân sống động không lẫn vào bất kì ai. “Ông là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy” trước đó, ở thời điểm đó, và mãi về sau.
—/—
Trên đây là một số bài văn mẫu Nghị luận bài Vội vàng mà Top lời giải đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!