/tmp/magoo.jpg
Mời các em tham khảo Lập dàn ý 13 câu đầu của bài thơ Vội vàng ngắn gọn, chi tiết, hay nhất của Top lời giải dưới đây để nắm được các ý chính cần triển khai cho bài văn, qua đó củng cố thêm kiến thức về tác phẩm, và tự viết cho mình một bài văn mẫu hay nhất. Cùng tham khảo nhé!
Nội dung bài viết
a) Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ, một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam nổi tiếng từ phong trào Thơ mới.
+ “Vội vàng” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu.
– Khái quát nội dung 13 câu đầu Vội vàng : Ước muốn táo bạo cùng tâm trạng hân hoan chào đón nhưng rồi lại vội vàng và cuống quýt trước sự trôi chảy của thời gian.
b) Thân bài:
* Luận điểm 1: Khao khát lưu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên
– Trong thơ ca trung đại ít có nhà thơ nào dám khẳng định cái tôi cá nhân của mình một cách táo bạo nhưng khi đến với phong trào Thơ mới, cái tôi Xuân Diệu đã bộc lộ một cách vô cùng độc đáo:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.
+ Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm cũng như tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người.
+ Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền tạo hóa của thi nhân.
+ “Nắng” mùa xuân là ánh sáng rực rỡ, ấm áp và tươi vui, “hương” mùa xuân là nơi tinh hoa của đất trời, của vạn vật kết tinh, hội tụ.
+ Hành động “tắt nắng”, “buộc gió” là những mong muốn dường như không tài nào thực hiện được bởi lẽ nó đi ngược lại với những quy luật vốn có của tự nhiên.
– Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất.
+ Thi sĩ khao khát giữ lại ánh nắng để “màu đừng nhạt mất”, giữ lại gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc hương.
+ Điệp cấu trúc “Tôi muốn… để”, động từ mạnh “tắt”, “buộc” cùng với nhịp thơ nhanh, dồn dập, thể hiện khao khát mãnh liệt, hối hả, muốn nhanh chóng không để những vẻ đẹp tạo hóa vụt mất khỏi tầm tay.
+ Nếu thời gian đi bằng nắng, bằng gió làm nhạt màu, làm phai hương thì nhà thơ muốn níu giữ thời gian ngưng bước, để màu sắc và hương thơm còn mãi với cuộc đời, để giữ mãi thời tươi xuân thì của tạo vật.
+ Cũng bởi thế, khao khát này cũng thể hiện sự ham sống bồng bột đến mãnh liệt và quan niệm về thời gian của ông: Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trôi qua rồi thì không trở lại nên nhà thơ có khao khát giữ nắng, giữ gió để tận hưởng hết vẻ đẹp của đất trời.
=> Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vì đóa hoa hương sắc cuộc đời tươi thắm, ngọt ngào mà mong manh, ngắn ngủi biết bao. Có thể nói đằng sau ước muốn phi lí ấy là một tâm hồn yêu người với thái độ trân trọng, nâng niu và gìn giữ.
* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp
– Từ thể thơ 4 chữ, nhà thơ chuyển sang những câu thơ 8 chữ, nhịp thơ như trải tỏ ra, chậm rãi, nhẹ nhàng như nhịp tâm hồn thi sĩ đang tận hưởng những tinh hoa của đất trời mùa xuân
– Điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại 5 lần như một lời mời gọi, kết hợp với thủ pháp liệt kê, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả.
– “Này đây” là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời, của thiên nhiên trần thế, không phải xa xôi mà gần gũi ngay trước mắt, không phải ở tương lai hay quá khứ mà ngay trong hiện tại lúc này.
– Điệp từ “của” lặp lại mang tính chất kết nối làm cho bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế lần lượt hiện ra, lại thêm phần phong phú, giàu có.
– Nhà thơ sử dụng một loạt biện pháp tự từ nhân hoá, dùng những danh từ thuộc về con người (“tuần tháng mật”, “khúc tình si”) để miêu tả thiên nhiên, kết hợp với “ong bướm”, “yến anh” được gọi tên như đôi như lứa khiến cho vườn xuân bỗng đầy mộng mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc.
– Tính từ “xanh rì”, “phơ phất” giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống
=> Bức tranh xuân không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui, hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” và “thần vui” vô cùng gợi cảm. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng
– Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng người ngất ngây tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân:
“Tháng Giêng non như một cặp môi gần”
+ Câu thơ sử dụng nghệ thuật ẩn chuyển đổi cảm giác, hay chính là phép giao thoa mà thơ Mới tiếp thu được từ thơ ca tượng trưng Pháp
+ Đây là câu thơ mới mẻ nhất, hiện đại nhất, đã khái quát được sự hấp dẫn của mùa xuân bằng sự so sánh vô cùng độc đáo. Nhà thơ cảm thụ thiên nhiên bằng tình lứa đôi, bằng thể xác và tâm hồn.
– Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với “cặp môi gần” căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến rũ.
+ Từ “ngon” được thốt lên đầy khát khao, và đam mê, là sự cảm nhận sâu nhất bằng mọi giác quan
+ Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa.
+ “Tháng giêng” là một khái niệm thời gian vốn vô hình, nhưng trong phép so sánh vừa táo bạo vừa mang sắc thái biểu cảm ấy đã trở nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp cặp môi gần của người thiếu nữ.
=> Nhà thơ đã thể hiện quan niệm của mình một cách thật sâu sắc: Nếu trong thơ ca Trung đại, các thi nhân lấy thiên nhiên để làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người thì đến với Xuân Diệu, con người mới là chuẩn mực cho mọi cái đẹp tồn tại trên cuộc đời này, và thiên đường không phải là những chốn thiên thai xa xôi, huyễn hoặc nào đó, mà chính là nơi đây, chính mặt đất trần thế mới là thiên đường của tình yêu, của cái đẹp và của tuổi trẻ.
* Luận điểm 3: Tâm trạng của thi sĩ
– Ngay lúc chàng thi sĩ trẻ đang ngất ngây mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”.
– Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui không trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao. Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.
=> Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh cảm bất an, băn khoăn âu sầu của nhà thơ vì thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi không trở lại, quả thật Xuân Diệu là nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian.
c) Kết bài
– Khái quát lại nội dung 13 câu thơ đầu Vội vàng.
– Nêu cảm nhận của em.
a) Mở bài
– Vội vàng là bài thơ hay của Xuân Diệu, ngay trong 13 câu thơ đầu đã nói đến không gian, thời gian của mùa xuân đất trời, ở đó cảnh vật và con người đang hiện lên với tình yêu quê hương đất nước.
b) Thân bài:
– Xuân Diệu đã miêu tả không gian, thời gian trôi lặng lẽ qua, mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, xuân đương tới, cũng có nghĩa là xuân sẽ quan, tuổi trẻ của con người cũng vậy cũng phải trải qua thời gian xuân sắc, tuổi già…
+ Tất cả đều hòa vào sự chuyển động của không gian, thời gian, những câu thơ mang đẫm tâm trạng và cảm xúc của con người khi đứng trước sự chuyển động của không gian, thời gian.
+ Xuân Diệu đã miêu tả những khoảng trống của thời gian tuổi trẻ, thời gian chảy trôi vĩnh hằng, với tình yêu cuộc sống da diết, nỗi nhớ cùng với thời gian và con người.
+ Thời gian của tuổi trẻ cứ thế trôi đi, mùa xuân của đất trời cũng thể hiện rõ và mang những cảm xúc xót xa và mang cảm giác tiếc nuối về thời gian trôi, những cảm xúc bộc lộ chân thành và vô cùng da diết.
+ Khoảng không gian mênh mông, cùng với thời gian trôi vĩnh hằng làm cho tác giả đang tiếc nuối, cảm xúc vội vã sống, vội vã yêu của tác giả cũng biểu hiện chi tiết và thể hiện nhiều xúc động sâu sắc trong tâm hồn của người đọc.
+ Thời gian đã trôi đi, tuổi trẻ cũng vậy, mùa xuân của đất trời thì luôn tuần hoàn, nhưng mùa xuân của con người thì không còn nữa, cuộc đời của mỗi người chỉ trải qua một lần.
+ Cuộc đời của con người cũng rất đáng quý vì vậy thời gian đó cũng nhẹ nhàng trôi, nhưng làm cho con người có cảm giác tiếc nuối.
c) Kết bài:
– Bài thơ Vội vàng đã đem đến cho con người nhiều xúc cảm sâu sắc, đó là tình yêu với tuổi trẻ, quy luật của cuộc sống và nỗi niềm của con người trước thời gian của tuổi trẻ.
I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích:
Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Qua bao thế hệ bạn đọc, tiếng thơ của người nghệ sĩ tài hoa ấy chưa một lần ngừng xao xuyến, bồi hồi. Nhắc đến Xuân Diệu, có những áng thơ đã đi vào bất hủ, trong đó phải kể đến “Vội vàng” .Chỉ với mười ba câu thơ đầu tiên trong bài thơ chỉ với 13 câu thơ đầu tiên, “ông hoàng của thơ tình” đã thể hiện một cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống đến mãnh liệt.
II. Thân bài:
1. Phân tích 4 câu thơ đầu: Khao khát lưu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên
– Trong thơ ca trung đại ít có nhà thơ nào dám khẳng định cái tôi cá nhân của mình một cách táo bạo nhưng khi đến với phong trào Thơ mới, cái tôi Xuân Diệu đã bộc lộ một cách vô cùng độc đáo:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.
– Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm cũng như tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người.
– Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền tạo hóa của thi nhân.
– “Nắng” mùa xuân là ánh sáng rực rỡ, ấm áp và tươi vui, “hương” mùa xuân là nơi tinh hoa của đất trời, của vạn vật kết tinh, hội tụ
– Hành động “tắt nắng”, “buộc gió” là những mong muốn dường như không tài nào thực hiện được bởi lẽ nó đi ngược lại với những quy luật vốn có của tự nhiên
– Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất.
– Thi sĩ khao khát giữ lại ánh nắng để “màu đừng nhạt mất”, giữ lại gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc hương.
– Điệp cấu trúc “Tôi muốn…để”, động từ mạnh “tắt”, “buộc” cùng với nhịp thơ nhanh, dồn dập, thể hiện khao khát mãnh liệt, hối hả, muốn nhanh chóng không để những vẻ đẹp tạo hoá vụt mất khỏi tầm tay
– Nếu thời gian đi bằng nắng, bằng gió làm nhạt màu, làm phai hương thì nhà thơ muốn níu giữ thời gian ngưng bước, để màu sắc và hương thơm còn mãi với cuộc đời, để giữ mãi thời tươi xuân thì của tạo vật.
– Cũng bởi thế, khao khát này cũng thể hiện sự ham sống bồng bột đến mãnh liệt và quan niệm về thời gian của ông: Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trôi qua rồi thì không trở lại nên nhà thơ có khao khát giữ nắng, giữ gió để tận hưởng hết vẻ đẹp của đất trời.
– Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vì đóa hoa hương sắc cuộc đời tươi thắm, ngọt ngào mà mong manh, ngắn ngủi biết bao. Có thể nói đằng sau ước muốn phi lí ấy là một tâm hồn yêu người với thái độ trân trọng, nâng niu và gìn giữ.
2. Phân tích 7 câu thơ tiếp theo: Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp
– Từ thể thơ 4 chữ, nhà thơ chuyển sang những câu thơ 8 chữ, nhịp thơ như trải tỏ ra, chậm rãi, nhẹ nhàng như nhịp tâm hồn thì sĩ đang tận hưởng những tinh hoa của đất trời mùa xuân
– Điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại 5 lần như một lời mời gọi, kết hợp với thủ pháp liệt kê, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả.
– “Này đây” là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời, của thiên nhiên trần thế, không phải xa xôi mà gần gũi ngay trước mắt, không phải ở tương lai hay quá khứ mà ngay trong hiện tại lúc này.
– Điệp từ “của” lặp lại mang tính chất kết nối làm cho bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế lần lượt hiện ra, lại thêm phần phong phú,giàu có.
– Nhà thơ sử dụng một loạt biện pháp tự từ nhân hoá, dùng những danh từ thuộc về con người (“tuần tháng mật”, “khúc tình si”) để miêu tả thiên nhiên, kết hợp với “ong bướm”, “yến anh” được gọi tên như đôi như lứa khiến cho vườn xuân bỗng đầy mộng mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc.
– Tính từ “xanh rì”, “phơ phất” giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống
– Bức tranh xuân không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui, hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” và “thần vui” vô cùng gợi cảm. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng
– Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng người ngất ngây tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân.
“Tháng Giêng non như một cặp môi gần”
– Câu thơ sử dụng nghệ thuật ẩn chuyển đổi cảm giác, hay chính là phép giao thoa mà Thơ Mới tiếp thu được từ thơ ca tượng trưng Pháp
– Đây là câu thơ mới mẻ nhất, hiện đại nhất, đã khái quát được sự hấp dẫn của mùa xuân bằng sự so sánh vô cùng độc đáo. Nhà thơ cảm thụ thiên nhiên bằng tình lứa đôi, bằng thể xác và tâm hồn.
– Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với “cặp môi gần” căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến rũ.
– Từ “ngon” được thốt lên đầy khát khao, và đam mê, là sự cảm nhận sâu nhất bằng mọi giác quan
– Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa. “Tháng giêng” là một khái niệm thời gian vốn vô hình, nhưng trong phép so sánh vừa táo bạo vừa mang sắc thái biểu cảm ấy đã trở nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp cặp môi gần của người thiếu nữ
– Chính ở đây, nhà thơ đã thể hiện quan niệm của mình một cách thật sâu sắc: Nếu trong thơ ca Trung đại, các thi nhân lấy thiên nhiên để làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người thì đến với Xuân Diệu, con người mới là chuẩn mực cho mọi cái đẹp tồn tại trên cuộc đời này, và thiên đường không phải là những chốn thiên thai xa xôi, huyễn hoặc nào đó, mà chính là nơi đây, chính mặt đất trần thế mới là thiên đường của tình yêu, của cái đẹp và của tuổi trẻ
3. Phân tích hai câu thơ tiếp theo: Tâm trạng của thi sĩ
– Ngay lúc chàng thi sĩ trẽ đang ngất ngây mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”.
– Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui không trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao. Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.
– Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh cảm bất an, băn khoăn âu sầu của nhà thơ vì thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi không trở lại, quả thật Xuân Diệu là nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian.
III. Kết bài:
Nêu cảm nhận chung về giá trị của đoạn trích và tài năng, tâm hồn của người nghệ sĩ:
Bằng ngòi bút nghệ thuật điêu luyện, sự kết hợp nhuần nhị giữa cảm xúc mong manh và mạch luận lý, giọng điệu say mê, sôi nổi cùng với những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ, đặc biệt là một hồn thơ giàu giao cảm và cái tôi độc đáo, qua 13 câu đầu, Xuân Diệu đã đem đến những thông điệp mang ý nghĩa nhân văn tích cực, khơi gợi lên trong mỗi trái tim niềm yêu cuộc sống thiết tha và khát khao sống trọn vẹn
I. Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm, nội dung, phạm vi phân tích
1, Tác giả:
– Là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới
– Là nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chốn non nước lặng lẽ này
2, Tác phẩm:
– Là bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác thơ Xuân Diệu
– Gửi gắm triết lý sống vừa độc đáo, hiện đại, vừa tích cực, nhân văn
3, Phạm vi phân tích
– 13 câu thơ đầu đã nói lên tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết của tác giả
II, Thân bài:
1, Khái quát:
– Hoàn cảnh sáng tác: trích trong tập “Thơ thơ”
2, Phân tích:
a, 4 câu thơ đầu: (trích thơ)
– Phép điệp “tôi muốn” kết hợp với động từ mạnh “tắt, “buộc”: ước muốn, khát khao mãnh liệt, muốn đoạt quyền tạo hóa
– Mục đích:
+ “Cho màu đừng nhạt mất”
+ “Cho hương đừng bay đi”
=> Muốn lưu giữ hương sắc của cuộc đời
-Lối thơ vắt dòng: bộc lộ ước muốn chân thành, mãnh liệt
– Chân dung cái tôi xuất hiện trực tiếp: đặc trưng của thơ mới
b, 9 câu còn lại
– Câu 5 đến câu 11: bức tranh thiên nhiên
+ Điệp ngữ “này đây”: giới thiệu, mời gọi mọi người đến với cảnh sắc của khu vườn nơi trần thê. Tất cả như bày sẵn , ngay trong tầm với
+ Liệt kê “ong bướm”, “hoa”, “đồng nội”, “ cành tơ”, “yến anh”: bức tranh sống động, rực rỡ màu sắc, rộn rã âm thanh, tràn đấy sức sống
+ Điệp từ “của” kết hợp với các hình ảnh gợi tả “tuần tháng mật “, “khúc tình si”,…. khiến khu vườn xuân trở thành khu vườn tình ái
+ Hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” là một hình ảnh nhân hóa táo bạo
+ Hình ảnh so sánh đặc biệt “tháng giêng ngon như một cặp môi gần”: nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mang đến vị của tháng năm, vị của thời gian, mùa xuân
=> Con người trở thành chuẩn mực của thiên nhiên
-Cảm xúc của Xuân Diệu-cái tôi trữ tình
+ Xuân Diệu nhìn sự sống dưới lăng kính của tình yêu và tuổi trẻ
+ Nhà thơ đắm say, giao hòa cùng vạn vật
+ Cảm giác tiếc nuối thời gian (trích thơ)
=> Đoạn thơ bộc lộ quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu
+ Quan niệm nhân sinh: cuộc sống trên trần thế là một thiên đường nới mặt đất
+ Quan niệm thẩm mỹ: chuẩn mực của mọi cái đẹp trên thế gian là con người
3, Đánh giá:
a, Nghệ thuật:
-Sử dụng những từ ngữ giàu sức biểu cảm
– Các biện pháp tu từ được sử dụng linh hoạt
b, Nội dung
-Xuân Diệu đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống
– Gửi gắm một quan niệm nhân sinh tích cực
+ Cuộc sống nơi trần thê chính là thiên đường trên mặt đất
+ Hạnh phúc, tình yêu, sự sống nằm ngay trong tầm tay với
III, Kết bài: khẳng định lại vấn đề, nêu cảm nghĩ bản thân
—/—
Từ Lập dàn ý 13 câu đầu của bài thơ Vội vàng mà Top lời giải đã hướng dẫn trên đây, các em hãy vận dụng kiến thức đã học, kết hợp với cách hành văn của mình để làm thành một bài viết hoàn chỉnh nhé. Ngoài ra, chúng tôi thường xuyên cập nhật những bài văn mẫu lớp 11 ngắn gọn, chi tiết, hay nhất phục vụ việc học văn của các em. Chúc các em luôn học vui và học tốt!