/tmp/bcmnh.jpg
Tổng hợp Dàn ý phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân của Nguyễn Khoa Điềm qua bài Đất nước do Top lời giải sưu tầm và biên soạn. Qua dàn ý và các bài văn mẫu được biên soạn ngắn gọn, chi tiết, hay nhất dưới đây sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu, các cách hành văn khác nhau, qua đó có thể tiếp cận tác phẩm với cái nhìn đa chiều, mới mẻ hơn. Mời các bạn cùng xem!
Nội dung bài viết
– Thể loại
Kiểu bài chứng minh văn học, cụ thể là chứng minh một tư tưởng (qua phân tích một đoạn thơ trữ tình).
– Nội dung
Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân (Trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm).
GỢI Ý
Trong đoạn thơ đất nước được cảm nhận như một sự thống nhất các yếu tố lịch sử, địa lí, văn hóa, phong tục, sự gan bó giửa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc, giữa thế hệ này với thế hệ khác qua tư tưởng cốt lõi Đất Nước của Nhân dân.
Thân bài có thể triển khai thành hai đoạn chính như sau:
A. QUA THIÊN NHIÊN
1. Tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên không còn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi:
Những người vợ nhờ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
2. Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân ta đã tạo dựng nên dất nước này. đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp”thành một khái quát sâu sắc.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi dâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
B. Ở CON NGƯỜI
1. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nhắc tên những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung tới những con người vô danh, bình thường, bình dị. Đất Nước trước hết là của Nhân dân, của những con người bình dị, vô danh:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
2. Họ lao động và chống ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ mai sau những giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo:
Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại.
1. Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và tác phẩm Đất nước.
– Giới thiệu về vấn đề cần phân tích: tư tưởng Đất nước của nhân dân
2. Thân bài
a. Quan điểm đất nước qua mỗi thời đại:
– Thời trung đại: đất nước là của vua, lãnh thổ gắn với quyền cai trị của vua.
– Thời cận đại: “Dân là dân nước, nước là nước dân” (Phan Bội Châu), nhưng còn mang nặng tư tưởng phong kiến phương Đông và hệ tư tưởng tư sản.
– Thời hiện đại: Đất nước của đại đa số quần chúng nhân dân.
b. Chứng minh tư tưởng đất nước của nhân dân:
* Đất nước của nhân dân được thể hiện ở chiều rộng lãnh thổ.
– Không gian thân thương gắn với những kỉ niệm của tình yêu đôi lứa:
“Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn”
– Đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng người Việt qua các thế hệ được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết:
“Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở…”
* Đất nước của nhân dân được thể hiện ở chiều dài của lịch sử:
– Đất nước được làm nên bởi những con người bình dị vô danh nhưng lại hết sức lớn lao phi thường.
– Những con người vô danh ấy đã làm nên giá trị vật chất và giá trị tinh thần truyền lại cho con cháu:
“hạt lúa”: là biểu tượng của những giá trị vật chất và biểu tượng của nền văn minh lúa nước.
“truyền lửa”: ngọn lửa của văn minh, của nhiệt tình cách mạng và của lòng yêu nước và niềm tin.
“giọng nói”: là ngôn ngữ của một dân tộc, là linh hồn, sự tồn tại của một quốc gia, giá trị tinh thần quý giá.
* Đất nước của nhân dân được thể hiện trong chiều sâu văn hóa:
– Những truyền thống lâu đời:
tục ăn trầu của bà.
thói quen bới tóc của mẹ.
say đắm và thủy chung trong tình yêu.
biết quý trọng nghĩa tình.
quyết liệt với kẻ thù.
c. Nghệ thuật
– Giọng điệu thủ thỉ tâm tình.
– Những hình ảnh quen thuộc gần gũi.
– Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ca dao, tục ngữ, hình ảnh…
3. Kết bài: Tư tưởng đất nước của nhân dân thể hiện giá trị nhân văn cao đẹp.
1. Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ thơ những năm chống Mĩ cứu nước
+ Bài thơ Đất nước trích trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời vào năm 1971 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra khốc liệt, là một đoạn trích tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm.
– Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Tư tưởng Đất nước của nhân dân.
2. Thân bài
* Khái quát về đoạn trích
– Hoàn cảnh ra đời: Đoạn trích Đất nước là phần đầu chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”, được hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị ở vùng tạm chiếm miền Nam về sứ mệnh của thế hệ, cá nhân trong kháng chiến.
– Giá trị nội dung: Đoạn trích thể hiện những cảm nghĩ mới mẻ của tác giả qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện, đặc biệt là tư tưởng Đất nước của Nhân dân được thể hiện qua giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha.
* Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân
Luận điểm 1: Đất Nước của Nhân dân được thể hiện trong chiều dài thời gian lịch sử
– Từ xa xưa với những hình ảnh gợi nhớ sự tích trầu cau, từ đời vua Hùng, từ truyền thuyết Thánh Gióng… cho đến muôn ngàn những con người bình dị, vô danh.
+ Bốn nghìn năm Đất Nước gắn với sự trường tồn của Đất Nước, sức sống mãnh liệt của nhân dân.
+ Nhà thơ không khẳng định lại các triều đại trong lịch sử và cũng không nhắc lại những tên tuổi lừng danh trong sử sách mà nghiêng về bày tỏ niềm tự hào, lòng biết ơn, trân trọng đến lớp lớp những người anh hùng vô danh
+ Những người vô danh ấy đã làm nên giá trị vật chất và giá trị tinh thần truyền lại cho con cháu mai sau thông qua:
“Hạt lúa” biểu tượng cho giá trị vật chất, cho nền văn minh lúa nước
“Ngọn lửa” không chỉ biểu tượng giá trị vật chất mà nó còn biểu tượng cho ngọn lửa của truyền thống cách mạng, ngọn lửa của văn minh, ngọn lửa của sự ấm áp, tin yêu.
“Giọng nói” là tiếng nói của nòi giống, của dân tộc, của biểu tượng cho giá trị tinh thần ngàn đời.
+ Quan trọng hơn, nhân dân còn là người mở mang bờ cõi, viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc, làm nên những thành quả cho con cháu mai sau. Lịch sử của đất nước được viết bằng máu của những người không tên, không tuổi để rồi:
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
=> Như vậy, Đất nước nằm sâu trong tiềm thức của mỗi người dân.
– Đất nước hiện lên từ những cái “ngày xửa ngày xưa…”, trong những câu chuyện cổ tích mẹ kể có ông Bụt, bà Tiên, cô Tấm thảo hiền, có sự tích trầu cau, Thánh Gióng…
=> Lịch sử đất nước dựng lại trong từng câu chuyện cổ xa xưa, gắn với cuộc sống, số phận của nhân dân.
Luận điểm 2: Đất nước của Nhân dân được thể hiện trong chiều rộng của không gian địa lí
– “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi chúng ta (Đất là nơi em đến trường/ Nước là nơi em tắm/ Đất Nước là nơi ta hò hẹn)
– Đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng người Việt qua các thế hệ được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết (Đất là nơi chim về/ Nước là nơi rồng ở), những địa danh nôm na bình dị (ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm)
– Đất nước đã trở thành sự sống máu thịt vô cùng thiêng liêng đối với mỗi người
=> Vẻ đẹp của Đất nước, Tổ quốc gắn với những con người bình dị vô danh.
Luận điểm 3: Đất nước của Nhân dân được thể hiện trong chiều sâu văn hóa
– Đất nước được phát hiện từ một câu chuyện cổ tích, một câu ca dao ở chốn thôn quê, từ cái kèo, cái cột nôm na, từ vị gừng cay muối mặn mộc mạc, từ cách làm ra hạt gạo, dãi dầu một nắng hai sương, hay từ cách bới tóc sau đầu của người Việt…
-> Đất nước ở quanh ta, ở trong ta, ở ngay những gì đơn sơ thân thuộc nhất.
– “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” -> Một đất nước dù lớn đến đâu cũng bắt đầu từ những cái nhỏ nhoi, vô số những cái nhỏ nhoi mới làm nên sự lớn lao.
– Đất nước với nguồn mạch phong phú của văn hóa dân tộc, văn học dân gian, ca dao thần thoại, cổ tích… -> vẻ đẹp của đất nước, nhân dân trong những giá trị văn hóa, tinh thần vĩnh hằng, bất tận của nhân dân.
– Đất nước của nhân dân là sự hội tụ và kết tinh với bao công sức và khát vọng của nhân dân. Đồng thời nhân dân là người làm ra đất nước cho nên khi viết về đất nước, nhà thơ đưa ta trở về cội nguồn của các giá trị văn hóa đân tộc, tìm thấy những nét nổi bật của tâm hồn, tính cách Việt Nam.
+ Tinh thần, là truyền thống thủy chung say đắm trong hạnh phúc tình yêu
+ Biết quý trọng tình nghĩa, coi trọng đạo nghĩa con người
+ Quyết liệt với kẻ thù để có được hạnh phúc bền lâu
=> Đoạn trích khép lại tư tưởng đất nước nhân dân nhưng lại ngời lên trăm dáng, trăm màu của dòng sông văn hóa, đậm đà hương sắc dân gian, linh hồn Việt.
=> Từ ba phương diện quan trọng nhất của một đất nước, của một dân tộc, tác giả đã nói lên một cách sâu sắc mà thấm thía tiếng lòng của dân tộc, thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân. Mọi cảnh sắc, mọi hình ảnh thiên nhiên, mọi truyền thống dân tộc đền được hun đúc, đều là máu thịt của Nhân dân, do Nhân dân gìn giữ và thắp sáng đến mai sau.
* Đặc sắc nghệ thuật:
– Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian như ca dao, dân ca, truyền thuyết, cổ tích, thần thoại cùng những phong tục tập quán…
– Giọng điệu tâm tình thủ thỉ, ngọt ngào
– Sự thay đổi kiểu câu, biến đổi giọng điệu linh hoạt làm tăng sức mạnh biểu hiện, vừa trữ tình vừa giàu chất chính luận.
3. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị tư tưởng Đất Nước của Nhân dân
– Nêu cảm nhận của em về tư tưởng
Đất nước là một chủ đề được quan tâm hàng đầu đối với lịch sử văn học nước ta. Mỗi thời đại có một cách hiểu, cách quan niệm riêng về đất nước. Thời trung đại người ta thường quan niệm đất nước gắn liền với công lao của các triều đại, do các triều đại kế tiếp nhau gây dựng lên. Còn ở thời hiện đại, khi người ta nhìn thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân, người ta mới thấy rằng đất nước là của nhân dân. Điều này tất nhiên càng được các nhà văn Việt Nam ý thức sâu sắc hơn ai hết khi dân tộc ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại chống Mỹ cứu nước. Tư tưởng xuyên suốt chương thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chính là tư tưởng đất nước của nhân dân.
Thành công đầu tiên khi thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn cho mình chất liệu văn hóa rất phù hợp đó là chất liệu văn hóa dân gian. Vẫn biết rằng chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ còn trái tim là nghệ sĩ. Tuy nhiên việc thể hiện tiếng nói của trái tim là rất quan trọng. Văn hóa dân gian trong bài thơ là những câu tục ngữ ca dao, những làn điệu dân ca, những câu hò sông nước, những câu chuyện cổ tích, những phong tục tập quán mà Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn trong câu thơ: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Nguyễn Khoa Điềm đi tìm đất nước ở cái ngày xửa ngày xưa trong câu chuyện cổ tích. Vì vậy nhà thơ mở đầu khúc ca đất nước bằng những câu thơ:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
…
Đất nước có từ ngày đó”
Trở về với cái “ngày xửa ngày xưa” ấy, nhà thơ đã phát hiện ra hai nguyên tố gốc, nguyên tố cơ bản làm ra đất nước đó là “đất” và “nước”. Trong quá trình hình thành thực thể đất nước cũng như phát triển đất nước “đất” và “nước” là hai tế bào đầu tiên. Nguyễn Khoa Điềm biến hóa, nhân đôi, sinh sôi nảy nở để trở thành cơ thể đất nước hoàn chỉnh. Tất cả những điều đó làm toát lên vẻ đẹp của nền văn minh lúa nước lâu đời. Cái hay của Nguyễn Khoa Điềm ở đây là ông không bê y nguyên câu tục ngữ ca dao nào thành thơ của mình mà dường như văn hóa dân gian thấm sâu vào tâm hồn ông ngay từ tấm bé qua câu hát điệu ru của bà của mẹ để bây giờ khi viết về đất nước, ông đã chưng cất nó, chắt lọc nó, xử lí nó qua lăng kính tâm hồn của mình. Thế là mỗi câu thơ dưới ngòi bút Nguyễn Khoa Điềm phảng phất theo làn điệu dân ca, phỏng theo những điệu hát ca dao, phỏng theo câu truyện cổ tích.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm”
Dùng thuyết âm dương, nhà thơ đã nhập đất vào với nước để tìm ra khái niệm đầu tiên:
Đất nước là nơi ta hò hẹn
…
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ
Với cách cắt nghĩa, khám phá để lí giải, tác giả khẳng định làm ra đất nước này đó chính là sự hò hẹn của đôi ta. Đôi ta ở đây chính là anh và em, là sự hóa thân của nhân dân. Nói cách khác nhân dân là người làm ra đất nước.
Văn hóa dân gian là sản phẩm tinh thần của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã mượn sản phẩm tinh thần của nhân dân để viết về tư tưởng đất nước của nhân dân, như vậy bài thơ Đất Nước từ nội dung đến hình thức nghệ thuật đều thấm đẫm tư tưởng đất nước của nhân dân. Và cứ như thế, không mạnh mẽ gân guốc, tác giả thủ thỉ thì thầm với người đọc để khẳng định rằng đất nước này trong bốn nghìn năm qua không ai khác ngoài nhân dân bằng những câu thơ:
“Khi hai đứa cầm tay
…
Đất nước vẹn tròn to lớn”.
Đất nước này có phát triển, có vẹn tròn to lớn nhờ có chúng ta cầm tay mọi người, nhờ có tinh thần đoàn kết của nhân dân. Tinh thần đoàn kết ấy tạo ra sức mạnh cho đất nước, giúp đất nước phát triển to lớn.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
Vẫn biết rằng một đất nước là sự cộng gộp của biết bao ngọn núi, con sông, ruộng đồng, gò bãi… Ở đâu cũng có tên đất, tên làng, tên núi, tên sông… Một mảnh đất chừng nào thiếu đi tên gọi, chừng ấy nó thiếu đi sự thiêng liêng của con người. Nhưng đặt tên gọi không tùy tiện bởi đằng sau tên gọi là một huyền thoại, đằng sau huyền thoại là một cuộc đời. Chính cuộc đời ấy, con người ấy ngã xuống bảo vệ đất nước này, làm nên đất đai của xứ sở.
Hòn Vọng Phu ngàn năm còn đó như minh chứng cho lòng thủy chung, son sắt ngàn đời của người phụ nữ Việt Nam bởi hai chữ Vọng Phu là chờ chồng. Đất nước ta đã phải trải qua ba mươi lăm năm của hai cuộc chiến tranh trường kì gian khổ, biết bao nhiêu người con trai ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con. Đây chính là tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Nội dung cũng là hình ảnh người học trò nghèo đã “góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên”. Họ còn là người yêu quê hương, thổi hồn mình vào con cóc, con gà “cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Đó là những người ta nhớ mặt đặt tên: “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” nhưng thử hỏi đất nước này có biết bao nhiêu con người ngã xuống vì ngày mai độc lập, ngã xuống để bảo vệ đất nước mà ta không nhớ mặt đặt tên:
“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”
Như đã nói là người chiến sĩ làm thơ, gót chân của Nguyễn Khoa Điềm đã in hằn trên mọi nẻo của Tổ quốc thân yêu. Đi đến đâu, nhìn vào lĩnh vực nào, khía cạnh nào, phương diện nào ông cũng đều chia sẻ tất cả là do nhân dân làm ra.
Từ một tiền đề vững chắc, tác giả đã triển khai đất nước ở chiều dài thời gian lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước:
“Em ơi em
…
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
Trong suốt bốn nghìn năm ấy, người Việt Nam cứ truyền ngọn lửa yêu nước từ lớp người này qua lớp người khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Lớp lớp người Việt Nam ra đánh trận để viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Trang sử ấy được viết lên bằng máu, bằng mồ hôi, bằng nước mắt, bằng cuộc đời của biết bao con người. Nhận định về vấn đề này, Engels đã nói: “không có máu và nước mắt của nhân dân, dân tộc ấy không thể có lịch sử”.
Đặt bài thơ Đất nước trong bối cảnh ngày hôm nay, khi nền văn học Việt Nam đang hội nhập với nền văn học thế giới. Mỗi người Việt Nam yêu nước cần phải bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Và thế là Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa khẳng định những thành công vốn có của bài thơ này, xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của mỗi chúng ta.
Vẫn biết rằng trường ca là một thể thơ dài, khó thuộc, khó nhớ và người viết trường ca dễ bị sa vào lối liệt kê, kể lể. Trích đoạn “Đất Nước” nói riêng, trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung tuy không tránh khỏi tùy vết này nhưng với tất cả những gì Nguyễn Khoa Điềm đã mang lại cho bài thơ Đất Nước với tư tưởng đất nước của nhân dân, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm xứng đáng là những vần thơ của năm tháng không thể nào quên.
—/—
Như vậy, Top lời giải đã vừa cung cấp những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay Dàn ý phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân của Nguyễn Khoa Điềm qua bài Đất nước để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn !