[CHUẨN NHẤT] Khuynh hướng sử thi là gì | Myphamthucuc.vn

Câu hỏi: Khuynh hướng sử thi là gì

Trả lời:

– Khuynh hướng sử thi (tính sử thi): Thường là những vấn đề lớn lao, những sự kiện, biến cố quan trọng có ý nghĩa sống còn với cả dân tộc, ngợi ca những vị anh hùng, chiến sĩ yêu nước,..  
– Tác phẩm viết theo huynh hướng sử thi là những tác phẩm đề cập đến những đề tài có ý nghĩa lịch sử và mang tính dân tộc.
– Nhân vật chính thường tiêu biểu cho lí tưởng, khát vọng, luôn hướng tới ánh sáng, luôn gắn số phận của cá nhân và số phận của cộng đồng, là kết tinh những phẩm chất tốt đẹp của một tập thể, cộng đồng. Nhân vật được ca ngợi là những người anh hùng sống chết vì Tổ quốc, vì Cách mạng
– Lời văn sử thi thường mang vẻ đẹp ngợi ca, trang trọng, ngôn từ mang tính cách điệu, hào hùng.

Cùng Toploigiai tìm hiểu thêm về Khuynh hướng sử thi nhé!

1. Đặc điểm của khuynh hướng sử thi

[CHUẨN NHẤT] Khuynh hướng sử thi là gì

– Đề cập đến nhưng vấn đề chung của cộng đồng, của xã hội, của đất nước, những sự kiện mang tính lịch sử.
– Ngôn ngữu thường mang tính chất trang trọng, giàu hình ảnh, mang tính tưởng tượng cao.
– Các nhân vật, hình tượng trong tác phẩm mang tính chất sử thi, dù là con người bình dị thuộc nhiều tầng lớp, lứa tuổi, thành phần dân tộc..
– Các tác phẩm mang tính sử thi luôn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc, vào thắng lợi của đất nước.
– Một số thủ pháp nghệ thuật khác: thủ pháp cường điệu, so sánh, lặp… nhằm khắc họa nổi bật đối tượng.

2. Khuynh hướng sử thi trong VHVN giai đoạn 1945-1975

Về đề tài, chủ đề:

    Các tác phẩm văn học trong giai đoạn 1945-1975 thường hướng tới những vấn đề trọng đại, có ý nghĩa lịch sử, liên quan đến vận mệnh của dân tộc, của cộng đồng.  Hiện thực mà văn học phản ánh là hiện thực cách mạng của dân tộc, là đời sống của dân tộc. Cái riêng tư, đời thường dường như bị lãng quên, ít được đề cập đến, nếu được nói đến thì chủ yếu cũng là để nhấn mạnh thêm trách nhiệm và tình cảm của cá nhân đối với cộng đồng.

a. Đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội:

+ Văn học ngợi ca vẻ đẹp của đất nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước như được thay da đổi thịt. Tổ quốc hiện ra trong vẻ lộng lẫy của địa hình sông núi, của đất nước rừng vàng, biển bạc,trăm sắc, trăm màu.

+ Văn học hướng về thể hiện nhịp sống lao động chủ nghĩa xã hội. Cuộc sống xây dựng khẩn trương sôi nổi trong nhịp điệu mới đang diễn ra trên khắp mọi miền đất nước, từ rừng sâu núi cao đến vùng trung du, đồng bằng duyên hải và các hải đảo xa xôi.

+ Văn học thể hiện niềm tự hào, niềm vui lớn của nhân dân khi được sống trong hòa bình, tự do, làm chủ cuộc đời, làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội.

VD: Bài Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận:

+ Đề tài: Cuộc sống lao động của người dân miền biển trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Chủ đề: Bài thơ viết về niềm vui và khí thế lao động hăm hở, hăng say của những ngư dân miền biển khi được làm chủ cuộc đời, làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội.

VD: Bài “Mùa lạc” – Nguyễn Khải

+ Đề tài: Cuộc sống lao động ở nông trường Điện Biên trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Chủ đề: Tác phẩm ngợi ca những đổi thay của đất nước, con người, thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc của con người khi đất nước bước vào thời kì mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, tác phẩm đưa ra những triết lí về cuộc sống.

VD: “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long

+ Đề tài: Cuộc sống lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Chủ đề: Ngợi ca những con người tình nguyện làm việc ở những nơi xa xôi, những điều kiện khắc nghiệt để xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc.

b. Đề tài đấu tranh đánh giặc, thống nhất đất nước

+ Trong suốt 30 năm ròng, dân tộc ta phải liên tục kháng chiến chống lại hai đế quốc sừng sỏ là Pháp, Mỹ. Bởi vậy, đề tài đấu tranh chống giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước là một đề tài nổi bật, thu hút nhiều tài năng văn học như Chính Hữu, Phạm Tiến Duật, Lê Minh Khuê, Tố Hữu, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu…

+ Văn học thể hiện những đau thương mất mát của nhân dân khi đất nước bị giặc ngoại xâm giày xéo.

+ Văn học thể hiện khí thế ra trận hăm hở, hào hùng, mãnh liệt của những con người khát khao độc lập, tự do. Ra trận chiến đấu với kẻ thù là nhiệm vụ của toàn dân tộc, là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, là sự kiện lịch sử lớn, gắn bó chặt chẽ với vận mệnh, số phận của nhân dân. Ra trận không có gì đáng sợ mà được ra trận là niềm vui, là hạnh phúc.

+ Văn học thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường, không ngại gian khổ, hi sinh của những người lính trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Ra trận, đối diện với kẻ thù, sự sống và cái chết gần nhau trong tấc gang nhưng họ không lùi bước, dẫu bị thương vẫn sẵn sàng xung phong đánh giặc.

VD: Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành

+ Đề tài: Cuộc nổi dậy của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ

+ Chủ đề: Tác phẩm ngợi ca sức sống mãnh liệt, lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường và ý chí một lòng hướng về Đảng, về Cách mạng của đồng bào Tây Nguyên trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

VD: Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi

+ Đề tài: Nhân dân Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ

+ Chủ đề: Tác phẩm ngợi ca lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường của nhân dân Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

VD: Tây Tiến – Quang Dũng

+ Đề tài: Hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp

+ Chủ đề: Ngợi ca vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến, những con người vừa hào hùng lại rất hào hoa, sẵn sàng hiến dâng tuổi xuân cho đất nước.

c. Đề tài Tổ quốc

    Đây là một đề tài lớn, bao quát thơ ca kháng chiến. Khuynh hướng sử thi đòi hỏi các tác giả nhìn con người và cuộc đời không chỉ bằng con mắt cá nhân mình mà chủ yếu là con mắt có tầm bao quát lịch sử, dân tộc và thời đại. Tố Hữu gọi đó là con mắt « nhìn bốn hướng – trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau – Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu », còn Chế Lan Viên gọi là « Con mắt Bạch Đằng – con mắt Đống Đa ». Với cái nhìn sử thi, các tác giả đã tập trung khám phá, thể hiện hình tượng Tổ quốc Việt Nam trong chiều sâu văn hóa suy tưởng và hình tượng Tổ quốc hào hùng trong chiến tranh.

+ Kế thừa những quan niệm về Tổ quốc của ông cha ta, những nhà thơ thời kháng chiến đã có cái nhìn mới mẻ về Tổ quốc trong chiều sâu văn hóa, lịch sử.

VD: Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận mới mẻ về Đất Nước từ chiều sâu văn hóa, lịch sử. Đất Nước là của Nhân Dân, chính nhân dân là người hóa thân làm nên sông núi, chính những con người bình dị, vô danh ấy đã làm nên Đất Nước.

Xem thêm:  Lý thuyết Sinh 9: Bài 47. Quần thể sinh vật | Soạn Sinh 9 | Myphamthucuc.vn

+ Hình tượng Tổ quốc hào hùng trong chiến tranh.

VD : Đất nước – Nguyễn Đình Thi. Nguyễn Đình Thi đã ghi lại một cách sâu sắc hình ảnh Đất Nước từ những năm tháng đau thương đến khi vùng dậy đấu tranh với khí thế hào hùng mãnh liệt, rung trời chuyển đất, quét sạch lũ giặc cướp nước :

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều »
« Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.

Về hình tượng nghệ thuật

    Hình tượng được khắc họa trong những tác phẩm văn học giai đoạn 1945-1975 là những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của toàn dân tộc. Đó là những con người có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi của dân tộc và thời đại, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc. Họ là những con người mang tầm vóc đất nước, dân tộc, mang chiều sâu lịch sử, tiêu biểu cho sức sống bất diệt, hào hùng của dân tộc ta, nhân dân ta, tiêu biểu cho tư tưởng, lẽ sống và tình cảm lớn của thời đại. Họ luôn sống với các sự kiện lớn lao của đất nước. Họ được cảm nhận và miêu tả không phải như vị anh hùng cá nhân thuở nào, cũng không phải là cá nhân mang nội dung khái quát thông thường bằng nghệ thuật điển hình hóa mà đó là những hình tượng nhân vật được xây dựng như một tấm gương sáng chói về đạo lý của cộng đồng.

a. Hình tượng mang tính sử thi đại diện cho vẻ đẹp, ý chí, sức mạnh của cả dân tộc, đất nước Việt Nam.

* Hình ảnh anh chiến sĩ giải phóng quân

– Hình ảnh anh chiến sỹ giải phóng quân là nhân vật trung tâm  của cuộc kháng chiến . Họ hiện lên với vẻ đẹp sáng ngời, đại diện cho tinh hoa, sức mạnh của dân tộc, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc Việt Nam. Các anh chiến sĩ giải phóng quân là những con người giàu nghị lực, giàu ý chí, có tình cảm đẹp, chiến đấu anh dũng kiên cường,lạc quan tin tưởng và là những con người chiến thắng.Hình tượng người lính giải phóng quân đã trở thành bức tượng đài kì vĩ về những người chiến sĩ anh hùng vô danh đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại

VD: Hình ảnh người lính Tây Tiến của Quang Dũng.

+ Bài thơ Tây Tiến xây dựng một hình ảnh đẹp về những người lính của đoàn quân Tây Tiến trong kháng chiến chống Pháp. Họ phần đông là những thanh niên, học sinh đất Hà thành, sẵn sàng “xếp bút nghiên lên đường đi chiến đấu”, hướng về miền Tây rừng thiêng nước độc mà lòng chẳng gợn chút sầu lo.

+ Ở những chàng trai trẻ tuổi ấy có một ý chí, sức mạnh vô song, đối diện với gian khổ mà vẫn oai hùng, lẫm liệt “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ hoai hùm”, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh / Áo bào thay chiếu anh về đất”. Họ là đại diện cho ý chí, sức mạnh của cả dân tộc trong những năm tháng đầy máu lửa ác nghiệt.

VD : Nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi

+ Việt là một cậu lính trẻ, tiêu biểu cho ý chí và sức mạnh của nhân dân Nam Bộ trong những ngày chống Mỹ ác liệt. Anh đến chiến trường từ những đau thương và căm hận, xung phong đi bộ đội khi còn chưa đủ tuổi, xông pha giữa mưa bom bão đạn với tinh thần “coi giặc cũng như không”, “liều mình như chẳng có” và lập được những chiến công oanh liệt. Những vết thương trên thịt da chẳng làm vơi đi tinh thần chiến đấu. Dẫu mắt không nhìn thấy rõ, dẫu toàn thân đau nhức, dẫu lạc mất đồng đội, bơ vơ giữa chiến trường, Việt vẫn luôn sẵn sàng nổ súng, đạn đã lên nòng, chỉ chờ giặc tới.

+ Ý chí và sức mạnh phi thường của một cậu lính trẻ khiến người đọc phải khâm phục, ngưỡng mộ. Đó cũng là sức mạnh và ý chí của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến. Ta hiểu vì sao một đế quốc hùng mạnh phải thất bại trước một dân tộc từng một thời chưa có tên trên bản đồ thế giới.

VD : Người giải phóng quan trong “Dáng đứng Việt Nam” của Lâ Anh Xuân.

+ Lê Anh Xuân đã ghi lại tư thế hiên ngang của anh chiến sĩ giải phóng quân trong lúc hi sinh. Dáng đứng của anh không còn là dáng đứng của một cá nhân cụ thể nào mà trở thành dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ :

“Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”

+ Người lính dù đối mặt với muôn vàn thử thách, gian khổ, hi sinh nhưng trong các anh vẫn biểu hiện niềm lạc quan chiến thắng.

VD : Người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

+ Giữa tuyến đường Trường Sơn khốc liệt, giữa mưa bom, lửa đạn, cái chết cận kề, những người lính lái xe vẫn luôn nở nụ cười lạc quan, nụ cười của một dân tộc đang chiến đấu và nắm chắc chiến thắng. Họ coi thường mọi khó khăn, vẫn hóm hỉnh, vui đùa dẫu cuộc sống chiến đấu có  nhiều gian khổ

“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

* Hình ảnh thanh niên xung phong, cô gái mở đường, cô du kích, giao liên…

   Họ được gọi là những « nàng tiên dũng sĩ », đã in bóng vào văn học với vẻ đẹp dịu dàng mà vẫn kiên cường, dũng cảm, mang đậm chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Các chị cũng chính là kết tinh của sức mạnh Việt Nam, đại diện cho tinh hoa, khí phách của con người Việt Nam trong những năm tháng không thể nào quên.

“Ai bảo tre xanh không thành vũ khí
Ai bảo dịu dàng em không là chiến sĩ”

(Thu Bồn)

VD : Những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê

VD : Cô gái thanh niên xung phong trong “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ”

“Chuyện kể rằng : em cô gái mở đường
Để cứu con đường ấy khỏi bị thương
Để đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom”

VD : Cô du kích nhỏ trong Bài “Tấm ảnh” của Tố Hữu

“O du kích nhỏ giương cao súng
Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế ! To gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu”.

VD: Nữ thanh niên xung phong trong bài “Người con gái Việt Nam” – Tố Hữu

“Em là ai cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây hay là mây là suối
Ánh mắt em cười hay chớp lửa đêm đông
Thịt da em hay là sắt là đồng?”

    Bằng cái nhìn sử thi, Tố Hữu nhìn chị Trần Thị Lý không phải là một cá nhân mà là một con người của dân tộc, của đất nước. Vì thế nhà thơ không gọi nhân vật của mình là chị Lý mà gọi là “Người con gái Việt Nam”, người con gái anh hùng với “trái tim vĩ đại”, không phải “đập cho em” mà đập cho “lẽ phải trên đời, cho quê hương em, cho Tổ quốc loài người”. Vẻ đẹp của chị Trần Thị Lý lấp lánh vẻ đẹp sử thi. Chị là hình ảnh đại diện tiêu biểu cho tinh hoa, khí phách của toàn dân tộc Việt Nam.

Xem thêm:  Tóm tắt bài Bài toán dân số | Myphamthucuc.vn

 * Hình ảnh các em nhỏ chiến sĩ.

    Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng nên không chỉ có “những chàng trai, những cô gái yêu” xung phong ra mặt trận diệt thù mà “mỗi em bé đều nằm mơ ngựa sắt/ Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng”. Bởi vậy, không chỉ có những anh chiến sĩ giải phóng quân để lại “dáng đứng Việt Nam”, những nàng tiên dũng sĩ được gọi là “Người con gái Việt Nam” mà thậm chí “những em thơ cũng hóa anh hùng”.Dẫu tuổi nhỏ nhưng các em đã chiến đấu kiên cường và hi sinh anh dũng tuyệt vời. Các em cũng là tiêu biểu cho vẻ đẹp phẩm chất của cả dân tộc.

VD: Hình ảnh chú bé liên lạc trong bà thơ “Lượm” của Tố Hữu

“Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề thượng khẩn
Sợ chi hiểm nghèo”

Cái chết thật nhẹ nhàng. Em hòa mình vào thiên nhiên, quê hương, đất nước.

“Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng”

Những người em chiến sĩ vô danh góp sức mình làm nên lịch sử:

“Con nhớ em con thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng rừng rậm em chờ
Sáng bản Na chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn chưa mất một phong thư”

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

VD: Cậu bé Tnú trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung thành

* Hình ảnh người mẹ anh hùng.

    Hình ảnh người mẹ là kết tinh của đức hi sinh, lòng nhân hậu, bao dung, hành động vì lí tưởng, vì đất nước, quê hương. Đó là những mẹ Suốt, mẹ Tơm trong thơ Tố Hữu, người mẹ tham gia đồng khởi, làm giao liên, đào hầm, giấu bộ đội, sản xuất chi viện chiến trường trong thơ Lê Anh Xuân, Bằng Việt, Hữu Thỉnh…

“Thương người cộng sản căm Tây, Nhật
Buồng Mẹ, buồng tim giấu chúng con
Đêm đêm chó sủa…làng bên động
Bóng mẹ ngồi canh lẫn bóng cồn…”

(Mẹ Tơm – Tố Hữu)

“Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

“Một tay lái chiếc đò ngang
Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày”

(Mẹ Suốt – Tố Hữu)

VD: Người mẹ trong “Những đứa con trong gia đình” là tiêu biểu cho những người mẹ Nam Bộ anh dũng, kiên cường trong đấu tranh.

* Hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh.

   Trong muôn vàn những người Việt Nam anh hùng cao đẹp, Hồ Chí Minh là “Người Việt Nam đẹp nhất”. Bác là tinh hoa của dân tộc, là hội tụ những vẻ đẹp cao quý của con người Việt Nam. Vẻ đẹp của Bác trong thơ trở thành vẻ đẹp mang tính sử thi trong văn học.

– Bác đã không quản ngại gian khổ, hi sinh, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc. Người không yên lòng khi đất nước bị giày xéo, nhân dân cực khổ, Người trăn trở tìm đường cứu nước

“Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa”

(Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên)

– Bác là người đưa đường chỉ lối cho nhân dân, cho dân tộc. Hình ảnh Bác được miêu tả với chiều sâu lịch sử:

“Bác Hồ đưa ta tới trời xa
Ba mươi năm bước đường qua
Đời ta có Bác xông pha dẫn đường
Người đi trước, nghìn sương muôn tuyết
Dắt dìu dân, nước Việt Nam ta”

– Bác còn là một người cha, người bác, người anh hiền từ, giản dị, gần gũi:

“Người là cha, là bác, là anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”.

– Trái tim Bác chan chứa tình yêu thương vô hạn đối với con người, từ đồng chí, đồng bào đến muôn kiếp người đau khổ khắp năm châu, bốn biển :

“Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”

(Theo chân Bác – Tố Hữu)

b. Vẻ đẹp của hình tượng sử thi là tiêu biểu cho lẽ sống lớn, tình cảm lớn của thời đại, của cộng đồng.

* Tình yêu đất nước:

VD : Cuộc đời Tnú đi từ đau thương đến hành động. Anh trở thành anh chiến sĩ giải phóng, trực tiếp giết giặc trả thù cho gia đình, cho bản làng. Trong anh cháy bỏng một tình yêu bản làng mà sâu thẳm là lòng yêu nước.

* Hình tượng mang tính sử thi còn mang trong mình tình đồng đội, tình quân dân ấm áp.

VD : Đồng chí  của Chĩnh Hữu

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

VD: Tây Tiến của Quang Dũng

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

* Hình tượng mang tính sử thi luôn có tình cảm dành cho Đảng, Bác Hồ kính yêu.

VD : Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

+ Cây xà nu ham ánh sáng mặt trời hay chính là con người Tây Nguyên luôn hướng về Đảng, về Cách mạng. Mỗi người dân làng Xô Man đều khắc sâu một câu nói của cụ Mết. Câu nói ấy đã trở thành phương châm sống của dân làng.

+ “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”

* Thế giới tình cảm của hình tượng mang tính sử thi cũng có tình yêu đôi lứa nhưng tình yêu ấy hài hòa trong tình yêu đất nước.

VD : Tình yêu của Nguyệt và Lãm trong “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu.

VD : Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên

“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương

Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương”

* Hình tượng thiên nhiên.

    Hình tượng thiên nhiên xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học lãng mạn vì các nhà văn lãng mạn luôn muốn phát huy trí tưởng tượng cao độ, khả năng liên tưởng phong phú để vẽ lên những bức tranh thiên nhiên lí tưởng theo mong muốn của mình. Và khi miêu tả thiên nhiên, các tác giả của văn học lãng mạn thường sử dụng triệt để nghệ thuật tương phản.

Trong văn học giai đoạn 1945-1975, hình tượng thiên nhiên cũng được miêu tả đậm nét và mang đậm tính sử thi. Thiên nhiên được miêu tả như một phông nền hoành tráng, kì vĩ để tôn lên vẻ đẹp của con người.

VD : Hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.

+ Rừng xà nu được miêu tả xuyên suốt chiều dài tác phẩm, gắn với cuộc đời, số phận của mỗi người dân làng Xô Man nhưng đậm nét nhất ở đoạn mở đầu và đoạn cuối của tác phẩm.

+ Rừng xà nu chịu nhiều đau thương, mang trong mình những nỗi đau lớn.

+ Mặc dù vậy, xà nu vẫn vượt lên đạn bom với một sức sống mãnh liệt, phi thường, vẫn ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng. Đặc biệt, xà nu là một loài cây ham ánh sáng mặt trời, luôn vươn lên để đón ánh nắng.

+ Để toát lên vẻ đẹp của xà nu, tác giả luôn đặt hình tượng xà nu trong thế tương phản với đại bác của giặc. VD : Chúng nó bắn đã thành lệ…Cả rừng xà nu hàng vạn cây k có cây nào k bị thương…Hiếm có loài cây nào lại sinh sôi nảy nở khỏe đến vậy…

Xem thêm:  Đóng vai người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính kể lại bài thơ (ngắn gọn, hay nhất) | Myphamthucuc.vn

– Hình tượng xà nu vừa như một bức phông nền hoành tráng, kì vĩ, tôn lên vẻ đẹp con người, vừa là tượng trưng cho những phẩm chất anh hùng của con người Tây Nguyên.

VD : Tây Tiến của Quang Dũng.

+ Bức tranh thiên nhiên miền Tây vừa hùng vĩ, hiểm trở, lại vừa thơ mộng, trữ tình, góp phần tôn lên vẻ đẹp hào hùng mà rất hào hoa của những người lính Tây Tiến.

Về ngôn ngữ giọng điệu.

   Những tác phẩm văn học giai đoạn 1945-1975 có giọng điệu mang tính sử thi. Đó là giọng anh hùng ca, hào sảng, đẹp một cách tráng lệ, hào hùng. Nếu đề cập đến cái bi, mất mát, hi sinh thì đó là giọng bi tráng, bi hùng chứ không hề bi lụy.

* Giọng ngợi ca, hào hùng, mang sắc thái khẳng định, đậm chất anh hùng ca

VD : Việt Bắc của Tố Hữu.

“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.

Đoạn thơ viết về Việt Bắc trong những đêm ra quân với khí thế hào hùng, mãnh liệt. Nhịp thơ nhanh, giọng thơ mạnh mẽ, hào sảng thể hiện sức mạnh và niềm tin chiến thắng của dân tộc.

VD: Tây Tiến của Quang Dũng.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. 

VD: Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi

+ Đoạn văn miêu tả tinh thần chiến đấu của Việt là đoạn văn đầy hào sảng, mang âm hưởng anh hùng ca: “Một loạt đạn súng lớn văng vẳng…. Lựu đạn ta đang nở rộ”

* Khi viết về Hồ Chí Minh, giọng thơ chủ yếu là giọng ngợi ca, khẳng định trong sự kính phục và yêu thương vô hạn.

VD: Bác ơi của Tố Hữu.

“Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời no lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già”

(Bác ơi – Tố Hữu)

* Giọng bi hùng, bi tráng khi nói về những mất mát, hi sinh.

Cuộc kháng chiến trường kì chống lại những tên đế quốc sừng sỏ không thể tránh khỏi những mất mát, hi sinh. Văn học thời kì này không né tránh mà đã tái hiện chân thực những đau thương của dân tộc. Tuy nhiên, giọng điệu không hề bi lụy mà bi hùng, bi tráng, tác động mạnh mẽ đến tâm can người đọc, khiến ta cảm nhận được chiều sâu và vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam trong những năm tháng không thể nào quên. Giọng điệu bi hùng còn có ý nghĩa thúc đẩy tinh thần đấu tranh của toàn dân tộc.

VD: Tây Tiến – Quang Dũng

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

VD: Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

+ “Tnu nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng…..từ đỉnh núi Ngọc linh về

* Các thủ pháp nghệ thuật.

Khuynh hướng sử thi thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật phóng đại, cường điệu và trùng điệp để nhấn mạnh cái phi thường.

– Phép cường điệu:

VD: Việt Bắc của Tố Hữu

“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”

VD: Tây Tiến của Quang Dũng.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

– Phép trùng điệp:

VD: Hình ảnh rừng xà nu được nhắc đến nhiều lần trong tác phẩm, đậm nét ở đoạn mở đầu và đoạn cuối tác phẩm.

 So sánh thể loại sử thi dân gian và khuynh hướng sử thi trong văn học 1945-1975.

* Những điểm giống nhau:

– Đề tài, chủ đề: Viết về những vấn đề lớn lao, mang tầm lịch sử, liên quan đến vận mệnh của cộng đồng.

– Hình tượng nghệ thuật: Đều xây dựng những hình tượng tiêu biểu, đại diện cho vẻ đẹp, sức mạnh, lí tưởng của cộng đồng.

– Ngôn ngữ, giọng điệu: Đều có giọng ngợi ca, khẳng định mạnh mẽ, hào sảng, sử dụng bút pháp phóng đại, cường điệu.

* Những điểm khác nhau:

– Về hình tượng nghệ thuật:

+ Nhân vật của sử thi là người anh hùng được thần thánh hóa, được thần linh phù trợ. VD: Đăm Săn được ông Trời mách nước để giết được MtaoMxay. Uylitxo được ví như một vị thần.

+ Nhân vật sử thi của văn học Việt Nam giai đoạn 45-75 tuy được lí tưởng hóa nhưng đó là những con người của cuộc sống đời thường. Họ được miêu tả một cách lí tưởng theo ước mơ, khát vọng của con người thời đại cách mạng. Vẻ đẹp của họ là điều mà con người thời đại này mong muốn, cố gắng hướng đến và có thể hướng đến chứ không phải siêu nhiên, thần thánh như ở các tác phẩm sử thi dân gian. Điều này xuất phát từ một nguyên nhân quan trọng: trình độ nhận thức, trình độ khoa học của con người thời đại này đã tiến bộ nhiều so với thời xa xưa.

– Về nghệ thuật:

+ Sử thi thường sử dụng lối trùng điệp ngôn ngữ và những định ngữ đi kèm.

VD:

+ Đăm săn là một tù trưởng đầu đội khăn nhiễu,, vai mang nải hoa.

+ Đăm Săn là một tù trưởng “danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi”

+ Penelop thận trọng. Uylitxo muôn vàn trí xảo…

– Sử thi thường nhắc lại nguyên vẹn hoặc chỉ thay đổi một chút để nhấn mạnh một ý nào đó.

VD: Đoạn miêu tả tiếng chiêng:

+ Câu của Đăm Săn: Ơ ngàn chim sẻ, ơ vạn chim ngói, ơ tất cả tôi tớ bằng này..

– Những tác phẩm văn học giai đoạn 45-75 không sử dụng định ngữ đi kèm để miêu tả nhân vật. Lối trùng điệp cũng được sử dụng nhưng không giống ở thể loại sử thi dân gian, không lặp lại nhiều lần một câu nói trong tác phẩm mà có sự thay đổi, chuyển biến, tạo nên sự đa dạng, tạo nên những ý nghĩa sâu sắc. VD: Hình tượng rừng xà nu có khi xuất hiện trong văn bản là rừng xà nu, có khi là cây xà nu, nhựa xà nu,…

– Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 mang đậm khuynh hướng sử thi. Khuynh hướng sử thi biểu hiện qua đề tài – chủ đề, hình tượng và giọng điệu trong tác phẩm văn học. Chất sử thi bao trùm đã làm nên vẻ đẹp rất riêng của một giai đoạn văn học, một vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Với đặc điểm nổi bật này, văn học VN giai đoạn 45-75 trở thành “tiếng nói, tâm hồn, nguyện vọng, ý chí của một dân tộc, một cộng đồng của nhiều con người cùng hợp lại, cùng hành động, cùng đứng lên chiến đấu giành lại quyền sống, quyền làm người, quyền độc lập, tự do… không phải cho riêng 

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Học tập