/tmp/vsmuh.jpg
Câu hỏi: Các biện pháp tu từ trong Chị em Thúy Kiều
Trả lời:
Trong đoạn trích ” Chị em Thúy Kiều” , tác giả đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật sau:
+ Từ láy
+ So sánh, nhân hóa
+ Ẩn dụ
+ Liệt kê
Trong dòng văn học cổ Việt Nam,Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm văn học kiệt xuất . Tác phẩm không chỉ nổi tiếng vì cốt truyện hay, hấp dẫn ,lời văn trau chuốt, giá trị tố cáo đanh thép , giá trị nhân đạo cao cả mà còn vì các nhân vật trong truyện được ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du miêu tả vô cùng đẹp đẻ, sinh động . Đặc biệt là các nhân vật mà tác giả tâm đắc nhất như Thúy Vân, Thúy Kiều .
Ngay phần đầu của Truyện Kiều Nguyễn Du đã khắc họa bức chân dung xinh đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân :
“ Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị , em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Nói đến Mai là nói đến sự mảnh dẻ, thanh tao ; nói đến tuyết là nói đến sự trong trắng ,tinh sạch. Cả mai và tuyết đều rất đẹp .Tác giả đã ví vẻ đẹp thanh tao , trong trắng của hai chị em như là mai là tuyết và đều đạt đến độ hoàn mĩ “ Mười phân vẹn mười”. Tiếp đó tác giả giới thiệu vẻ đẹp của Thúy Vân :
“ Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn ,nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với ẩn dụ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân. Nàng có một vẻ đẹp mà hiếm thiếu nữ nào có được với khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm, lông mày cong hình cánh cung như mày ngài . Miệng cười của nàng tươi như hoa nở, giọng nói của nàng trong như ngọc. Lại nữa da trắng mịn đến tuyết phải nhường. Ôi, thật là một vẻ đệp đoan trang, phúc hậu ít ai có được . Nguyễn Du đã miêu tả bức chân dung nàng Thúy Vân có thể nói là tuyệt đẹp .Đọc đoạn này ta thấy rung động trước vẻ đệp tuyệt vời cảu Thúy Vân và thêm thán phục thiên tài Nguyễn Du. Ông đã vận dụng biện pháp tu từ của văn thơ cổ vừa đúng đắn vừa sáng tạo. Nguyễn Du miêu tả Thuý Vân đã khiến ta rung động đến vậy , ông miêu tả Thuý Kiều thì ta còn bất ngờ hơn nữa . Bất ngờ đến kinh ngạc. Bắt đầu từ câu :
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Nàng Vân đã tuyệt diệu như vậy rồi , nàng Kiều còn đẹp hơn nữa ư ? Có thể như vậy được không ? Ta hãy xem ngòi bút của Nguyễn du viết về nàng Kiều :
“ Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liểu hờn kếm xanh
Một hai nghiên nước nghiên thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”
Đến đây , chắc hẳn ta sẽ hài lòng và vô cùng thán phục . Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp Thuý kiều không dài , chỉ vài cau thôi , vậy mà ta như thấy hiện ra trước mắt một thiếu nữ“ tuyệt thế gia nhân” . Mắt nàng thăm thẳm như làn nước mùa thu, lông mày uốn cong xinh đẹp như dáng núi mùa xuân ; dung nhan đằm thắm đến hoa củng phải ghen , dáng người tươi xinh mơn mởn đén mức liễu cũng phải hờn . Khi đọc đến đoạn này ta không chỉ rung động , thán phục mà có một cảm giác xốn xang khó tả bởi nàng Kiều Xinh đẹp quá . Thủ pháp ước lệ,nhân hoá là biện pháp tu từ phổ biến trong văn học cổ được tác giả sử dụng xuất sắc , kết hợp với việc dùng điển cố “nghiêng nước nghiêng thành” , tác giả đã làm cho ta không chỉ đọc, chỉ nghe, chỉ cảm nhận , mà như thấy tận mắt nàng Kiều . Nàng quả là có một vẻ đẹp “ sắc sảo mặn mà” Ta có thể nói là “có một không hai” làm mê đắm lòng người . Đọc hết những câu trên, ta mới hiểu được dụng ý của Nguyễn Du Khi miêu tả vẻ đẹp “đoan trang phúc hậu” của Thuý Vân trước vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” của Thuý Kiều .
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp đòn bẩy , dùng vẻ đệp của Thúy Vân để làm để làm tôn thêm vẻ đẹp yêu kiều , quyến rũ của Thuý Kiều rất có hiệu quả. Sắc đã vậy còn tài của nàng Kiều thì sao ? ta sẽ không cảm nhận được hết toàn bộ vẻ đẹp hình thể củng như vẻ đẹp tâm hồn cua Thuý Kiều nếu như ta không biết đến tài của nàng, mặc dù Nguyễn Du đã nói “ Sắc đành đòi một , tài đành hoạ hai” . Về sắc thì chắc chắn chỉ có mình nàng là đẹp như vậy , về tài hoạ chăng có người thứ hai sánh kịp:
Thông minh vốn sẳn tính trời
Pha mùi thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Nàng có cả tài thơ , tài hoạ , tài đàn , tài nào cũng xuất sắc , cũng thành “nghề” cả . Riêng tài đàn nàng đã sáng tác một bản nhạc mang tiêu đề “ Bạc mệnh” rất cuốn hút lòng người. Với hai nhân vật như Thuý Kiều Thuý Vân , Nguyễn Du đã sử dụng các biện pháp tu từ phổ biến trong văn thơ cổ như ước lệ , ẩn dụ , nhân hoá , dùng điển cố . Qua đó ta thấy vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thuý Vân Và vẻ đẹp “ sắc sảo măn mà” của Thuý Kiều . Hai bức chân dung của hai chị em Thuý Kiều Thuý Vân , mà Nguyễn Du khắc hoạ phải nói là rất thành công . Đặc biệt là Thuý Kiều nhà thơ đã giành trọn tâm huyết , sức lực và tài năng của mình để sáng tạo nên nàng. Bởi nang là nhân vật chính của Truyện Kiều
Như đã nói. Truyện Kiều thu hút người đọc phần lớn là nhờ nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du . Quả vậy nghệ thuật tả người của Nguyễn Du có thể gọi là bạc thầy trong nền văn học cổ Việt Nam . Tả hình dáng bên ngoài của nhân vật ông luôn làm toát lên cái tính cách , tâm hồn bên trong của nhân vật đó. Với Thuý Vân ông đã thực hiện biện pháp ước lệ để miêu tả vẻ đẹp :
“ Khuôn trăng đầy đặn , nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Tất cả các từ ngữ , hình ảnh được ông sử dụng trong các câu thơ trên đều tập trung làm cho người đọc thấy được vẻ đẹp “ đoan trang, thuỳ mị” của Thuý Vân . Không những khắc hoạ vẻ đẹp hình thể bên ngoài Nguyễn Du còn như dự báo số phận bình lặng, êm ả của nàng qua từ “ thua” và từ “ Nhường”. Mây và tuyết thua avẻ đẹp của Thuý Vân nhưng cả hai đều chịu “ thua” và chịu “ nhường”một cách êm ả. Với Thuý Kiều , Tác giả dùng nhiều biện pháp tu từ để miêu tả vẻ đẹp “sắc sảo , mặn mà” của nàng.Những câu thơ miêu tả nàng có thể xem là tuyệt bút :
“ Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liểu hờn kém xanh”
Trong hai câu thơ ,Nguyễn Du như đã dự báo số phận bấp bênh chìm nổi của Kiều qua các hình ảnh hoa và liễu thua vẻ đẹp của nàng nhưng không cam chịu thua mà còn “ ghen” còn “ hờn” và khúc nhạc bạc mệnh nàng sáng tác cũng như dự báo điều đó. Nói tóm lại , Nguyễn Du có nghệ thuật tả người rất đặc sắc và tiêu biểu . Mỗi nhân vật ông miêu tả dù tốt hay xấu , dù chính diện hay phản diện cũng đề biểu hiện được bản chất tâm hồn bên trong qua hình dáng bên ngoài . Nghệ thuật miêu tả , xây dựng nhân vật của Nguyễn Du rất đáng để chúng ta trân trọng và học tập .
Nguyễn Du là người nghệ sĩ bậc thầy, ông không chỉ tài năng trong cách vận dụng thể thơ lục bát thuần dân tộc để sáng tác nên Truyện Kiều bất hủ. Mà để tạo nên thành công cho tác phẩm, ta không thể không nhắc đến tài năng vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm của mình, đặc biệt là nghệ thuật ẩn dụ. Trong khuôn khổ của một bài khảo cứu ngắn, chúng tôi chỉ khảo sát nghệ thuật ẩn dụ trên hai phương diện là: nghệ thuật ẩn dụ trong tả người và nghệ thuật ẩn dụ trong tả cảnh.
Trước hết về nghệ thuật ẩn dụ trong tả người của Nguyễn Du cũng đã đạt đến độ điêu luyện, xuất thần. Bằng những phác họa hết sức ít ỏi nhưng họ đã làm bật lên vẻ đẹp chân dung tinh thần của hai nàng Kiều: “Mai cốt cách tuyết tinh thần/ Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Và để từ đó lần lượt hiện lên chân dung hai nàng:
Vân xem trang trọng khác vời
…
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Tác giả đã vẽ nên bức chân dung Thuý Vân bằng nghệ thuật so sánh ẩn dụ và ngôn ngữ thơ chọn lọc, chau chuốt: khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, tươi sáng như mặt trăng; lông mày sắc nét như con ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo; mái tóc đen óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn. Còn với nàng Thúy Kiều, không đi vào chi tiết, mà chỉ vào tập chung vào đôi mắt đầy xúc cảm của nàng:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”.
Đây là nghệ thuật điểm nhãn đặc trưng của văn học trung đại. Tác giả không đi vào miêu tả kĩ đối tượng, giống như Thúy Vân, chi tiết từng bộ phận trên mặt, mà chỉ lấy một vài điểm ấn tượng nhất, có hồn nhất để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật. Với nàng Kiều chính là đôi mắt và đôi mày. Mắt nàng nhưng làn nước mùa thu trong vắt gợi đôi mắt long lanh, thông minh mà đa tình, đa cảm, ẩn dưới nét lông mày như nét vẽ của Kiều. Còn đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân, tươi trẻ đầy sức sống. Hệ thống hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để miêu tả vẻ đẹp của Kiều: “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa”, “liễu”. Nếu như thiên nhiên được dùng để miêu tả Vân là một thế giới thiên nhiên viên mãn, tròn đầy, ổn định thì Thúy Kiều lại gắn với một thiên nhiên sống động, biến hóa. Hơn nữa, trước vẻ đẹp của Thúy Kiều, thiên nhiên phải “hờn”, “ghen”, do vậy cũng báo trước một số phận đầy sóng gió. Như vậy kết hợp với bút pháp gợi tả cùng với nghệ thuật ẩn dụ tài tình, Nguyễn Du đã tạc lên trước mắt chúng ta hai mĩ nhân tuyệt đẹp, đặc biệt là vẻ đẹp của nàng Kiều. Thúy Kiều đẹp vượt ngoài quy chuẩn của thiên nhiên, đó chính là nhan sắc của tuyệt thế giai nhân, chim sa cá lặn, nhưng đồng thời sau bức chân dung đó lại dự báo một số phận đầy sóng gió, truân chuyên.
Không chỉ thành thục trong việc vận dụng nghệ thuật ẩn dụ trong tả người, mà Nguyễn Du còn tỏ ra hết sức tài năng, khéo léo khi vận dụng nghệ thuật ẩn dụ trong miêu tả khung cảnh thiên nhiên. Đó là khung cảnh lễ hội mùa xuân náo nức, vui tưới, nam thanh nữ tú đua nhau đi hội:
Gần xa nô nức yên anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Nguyễn Du đã mượn hình ảnh chim yến chim oanh để miêu tả cảnh nam thanh nữ tú, từng đoàn người nô nức đi chơi xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Và ấn tượng nhất là nghệ thuật ẩn dụ trong tám câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, đến đây nghệ thuật ẩn dụ đã đạt đến độ tài tình.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu tạo nên âm điệu trầm buồn, mở ra bốn cảnh, mỗi cảnh lại là một tâm trạng khác nhau của Kiều. Nỗi buồn đó ngày càng mãnh liệt, chồng chất triền miên qua nghệ thuật tăng cấp. Kết hợp với điệp từ là những hình ảnh so sánh ẩn dụ đặc sắc, giàu giá trị biểu đạt. Con thuyền lẻ loi đơn độc kia chẳng phải đó cũng chính là ẩn dụ cho cuộc đời lênh đênh, chìm nổi của nàng Kiều đó sao. Không chỉ vậy hình ảnh con thuyền còn biểu tượng cho khát khao đoàn tụ, sum họp gia đình của nàng. Hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi man mác” là biểu tượng cho thân phận chìm nổi, bé bỏng, mong manh của Kiều. Kiều cũng như cánh hoa kia, lênh đênh theo dòng đời, không biết rồi số phận của mình sẽ ra sao, không biết sẽ trôi dạt về đâu. Câu hỏi tu từ “biết là về đâu” vang lên như một tiếng than ai oán càng nhấn mạnh sự vô định không có quyền tự quyết số phận cuộc đời mình. Từ đó càng làm tăng thêm sự buồn tủi về thân phận bèo bọt, phụ thuộc. Và khung cảnh thiên nhiên càng trở nên dữ dội hơn nữa, màu xanh nhạt nhòa, héo úa, những cơn sóng điên cuồng ập đến bủa vây lấy người con gái nhỏ bé, đáng thương, tội nghiệp. Lời độc thoại “buồn trông” lặp đi lặp lại cùng với các hình ảnh ẩn dụ đặc sắc càng khắc sâu nỗi buồn da diết, dai dẳng, triền miên của Thúy Kiều.
Với ngôn ngữ cô đọng, hàm súc kết hợp với các biện pháp nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật ẩn dụ, Nguyễn Du đã làm cho tác phẩm của mình giàu sức sống, hàm ẩn nhiều ý nghĩa để bạn đọc các thế hệ cùng khám phá. Nghệ thuật ẩn dụ trong tác phẩm Truyện Kiều đã đạt đến độ bậc thầy, truyền tải giá trị tư tưởng nhân văn của thi hào Tố Như.