/tmp/nicgu.jpg
Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Cảm nhận Chí khí anh hùng học sinh giỏi. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp nâng cao, chi tiết từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh chuyên văn. Mời các em cùng tham khảo nhé!
Nội dung bài viết
1. Mở bài
– Dẫn dắt vấn đề: Chủ đề chí nam nhi “đầu đội trời, chân đạp đất” quen thuộc trong văn học
– Giới thiệu vấn đề: Đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du) đã thể hiện vẻ đẹp, chí khí phi thường, mưu cầu nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải.
2. Thân bài
a) Hoàn cảnh Kiều gặp Từ Hải:
– Lần thứ hai khi Thúy Kiều bị đẩy vào lầu xanh thì may mắn Từ Hải xuất hiện và đưa nàng thoát khỏi cảnh ô nhục
– Từ Hải giúp nàng “báo ân, báo oán” và hai người đã có cuộc sống hạnh phúc
– Tuy nhiên, là người đàn ông có bản lĩnh lớn, không bằng lòng với cuộc sống êm đềm, Từ Hải đã quyết chí từ biệt Kiều ra đi
b) Xuất xứ: Từ câu 2213 – 2230
c) Cảm nhận về tác phẩm:
* Cảm nhận về bốn câu thơ đầu: Bối cảnh và lí do dẫn đến cuộc chia li giữa Kiều và Từ Hải
– Câu thơ đầu: “Nửa năm… nồng”: Kiều và Từ Hải chung sống với nhau mới có nửa năm nhưng vô cùng êm đềm, tận hưởng tình yêu nồng nàn, say đắm
– Những câu thơ tiếp: “Trượng phu… thẳng rong”:
+ “trượng phu”: Từ chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng
+ “động lòng bốn phương”: Chí hướng mà Từ Hải đang muốn tung hoành thiên hạ, vùng vẫy khắp nơi, quyết lập sự nghiệp phi thường
+ “thanh gươm… thẳng rong”: Tư thế ra đi đầy hiên ngang, dứt khoát, tự tin, làm chủ phương trời tự do
=> Hình ảnh con người hiện lên không hề nhỏ bé mà sánh ngang cùng vũ trụ rộng lớn
* Cảm nhận về 12 câu thơ tiếp: Cuộc đối thoại giữa Kiều và Từ Hải
– Tâm trạng của Thúy Kiều: “Nàng rằng… xin đi” => Không chỉ yêu mà còn hiểu, khâm phục, kính trọng Từ
+ “phận gái chữ tòng”: Quan niệm phong kiến “Phu xướng tùy phụ, xuất giá tòng phu” => Kiều nguyện gắn bó cuộc đời với Hải, ý thức được bổn phận của người vợ, một lòng níu giữ tình yêu và đi theo chồng.
– Thái độ của Từ Hải: “Từ rằng… nữ nhi thường tình”
+ Khuyên Kiều vượt lên thói nữ nhi thông thường, không muốn Kiều phải vất vả vì mình
+ Lời hứa “Bao giờ mười vạn tinh binh… rước nàng nghi gia”: Chàng muốn làm nên nghiệp lớn và hứa hẹn ngày trở về đón nàng
* Cảm nhận về hai câu thơ cuối: Thái độ kiên quyết “dứt áo ra đi” của Từ Hải
– Thái độ và cử chỉ vô cùng dứt khoát, mạnh mẽ: “Quyết lời… dặm khơi”
– Viễn cảnh không gian ra đi: “gió mây, dặm khơi” => Không gian kì vĩ, tự do, rộng lớn
– Hình ảnh “chim bằng”: Biểu tượng của người anh hùng có lí tưởng cao đẹp, phi thường sánh ngang cùng vũ trụ
=> Ước mơ về người anh hùng lí tưởng trong xã hội phong kiến của Nguyễn Du.
3. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
– Nêu suy nghĩ và cảm xúc của bản thân về tác phẩm.
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm rất nổi tiếng, trong đó phải kể đến tác phẩm nổi bật nhất là “Truyện Kiều”. Tác phẩm là lời phê phán xã hội phong kiến đương thời của Nguyễn Du đồng thời cũng là nơi gửi gắm mơ ước về một xã hội công bằng với người anh hùng xứng đáng là bậc trượng phu. Khát vọng ấy của Nguyễn Du được thể hiện qua nhân vật Từ Hải, đặc biệt là qua trích đoạn “Chí khí anh hùng”.
Sau những biến cố thăng trầm đầu tiên của cuộc đời, Kiều những tưởng được giải thoát khi nàng bắt gặp Thúc Sinh. Thế nhưng với tính cách nhu nhược yếu đuối, Thúc Sinh đã không thể mang cho nàng một cuộc sống bình yên. Chính lúc này, nàng lại một lần nữa rơi vào tay của những kẻ buôn người Bạc Bà, Bạc Hạnh và trở lại kiếp kĩ nữ lầu xanh. Và cuộc đời Kiều đã kịp rẽ hướng khi nàng bắt gặp Từ Hải. Tài năng, nhân cách cùng nhan sắc của nàng đã khiến chàng Từ vô cùng khâm phục. Vậy nên chàng đã giải thoát nàng khỏi chốn ô nhục và từ đó cùng nàng sánh duyên bên nhau:
“Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”
Chẳng bằng lòng với cuộc sống hiện tại, Từ Hải đã quyết chí ra đi để dựng lên nghiệp lớn sau nửa năm mặn nồng cùng nàng Kiều tài sắc. Đoạn trích chỉ với mười tám câu thơ nhưng đã cho ta thấy được ý chí, lý tưởng lớn lao mà Từ Hải muốn gây dựng, đồng thời cũng cảm nhận được mơ ước lớn lao của Nguyễn Du về một người anh hùng chân chính.
Mở đầu đoạn trích, người ta như thấy được cuộc tình vô cùng lãng mạn của đôi trai tài gái sắc. Thế nhưng, sau hình ảnh đầy lãng mạn ấy lại là mở đầu của một cuộc chia lý vì chí lớn:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
“Nửa năm” chẳng phải là khoảng thời gian dài, nhưng nửa năm đó, Kiều và Từ Hải đã vô cùng gắn bó, vô cùng “mặn nồng”. Từ “hương lửa” được Nguyễn Du sử dụng ở đây như một hình ảnh ước lệ của tình yêu. “Hương lửa đương nồng” tức là tình cảm của đôi trai tài gái sắc đang rất mặn nồng, tưởng chừng như chẳng thể xa cách. Thế nhưng ngay trong tình yêu, chàng trai Từ Hải cũng luôn nung nấu ý định ra đi vì lý tưởng của mình. Ở đây, Nguyễn Du đã gọi Từ Hải là “trượng phu” – một người đàn ông có tài năng, đức độ, có chí lớn. Vậy nên, chẳng ngạc nhiên khi người “trượng phu” ấy đã “động lòng” chuẩn bị ra đi cho lý tưởng của mình. Chàng muốn được vùng vẫy, muốn được thỏa chí trong “trời bể mênh mang”, muốn được thỏa sức mà tung hoành mà dựng lên nghiệp lớn. Hình ảnh “trời bể mênh mang” như muốn khẳng định khát khao của chàng. Chính vì vậy, khi quyết chí ra đi, chàng vô cùng dứt khoát “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”. Quyết định nhanh chóng, trong dứt khoát của chàng “thoắt đa” đã được hiện thực hóa bằng hành động quyết liêt. Một mình cùng một thanh gươm, một con ngựa tốt, chàng quyết chí ra đi tìm kiếm lý tưởng cho mình một cách vô cùng kiên định. Tư thế của chàng vô cùng oai phong, lẫm liệt, hành động dứt khoát, xứng danh với danh từ “trượng phu” mà Nguyễn Du đã đặt cho chàng. Không những thế, ông còn đặt chàng Từ vào một tư thế sánh ngang với trời bể mênh mang, với trời đất để khẳng định tầm vóc của chàng. Nguyễn Du vẽ lên một người anh hùng mang tầm vóc vũ trụ với lý tưởng to lớn, sẵn sàng ra đi vì lý tưởng đó.
Bốn câu thơ đầu tuy ngắn ngủi nhưng đã cho ta thấy cảnh chia ly dứt khoát trong mặn nồng của Kiều và Từ Hải, đồng thời cũng chỉ ra tư thế hiên ngang, oai phòng, ý chí quật cường, hào hừng của người anh hùng mang tầm vóc vụ trụ này. Bằng những hình ảnh ước lệ, Nguyễn Du như muốn khẳng định ước mơ về người anh hùng thực hiện công lý của mình.
Sau những lời chia tay quyết liệt để ra đi của chàng Từ, Kiều đã tâm sự lòng mình cùng chàng:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi!
Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng không bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?”
Kiều chỉ một lòng một dạ được đi theo chàng, bởi nàng không muốn sống trong cảnh cô đơn, lạc lõng như trước. Chữ “tòng” mà nàng nói cũng là một trong những lễ nghi luân lý “phận gái tam tòng” của Nho giáo. Nó vô cùng hợp tình hợp lý. Thế nhưng, đáp lại lời Kiều, Từ đã nói rằng:
“Từ rằng: tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”
Đối với chàng, Kiều không chỉ là người bạn đời, người chàng thương, yêu mến, mà là người bạn tâm giao, tri kỉ của chàng. Những lý tưởng của chàng chắc chắn nàng là người hiểu rõ nhất. Chính vì vậy, Từ Hải mới mong muốn nàng “thoát khỏi nữ nhi thường tình”, thoát khỏi những suy nghĩ thông thường của người phụ nữ mà hiểu và ủng hộ cho chàng. Vậy mà sao nàng vẫn chưa chịu hiểu cho chàng? Chàng có ý trách nàng. Chàng ra đi nhưng sẽ trở về cùng vinh quang chiến thắng để đường hoàng “rước nàng nghi gia”
“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Chàng ra đi thực hiện lý tưởng, nghiệp lớn, dựng binh nghiệp, trở về với tiếng chiêng, bóng cờ rợp trời. Lý tưởng đó của chàng một phần vì chàng mà một phần cũng vì nàng. Với cơ nghiệp ấy, cùng vinh quang ấy, chàng sẽ rước nàng làm vợ chính thức của mình. Để thực hiện điều lớn lao ấy sẽ phải trải qua biết bao khó khăn, “bốn bể không nhà”, người con gái mong manh như Kiều sao có thể chịu đựng được những thử thách nhường ấy? “Bón bể không nhà” cũng thể hiện ý chí tung hoành ngang dọc của Từ Hải. Lời chàng nói ra vừa là lời an ủi vừa là lời hứa hẹn với nàng một năm sau sẽ trở lại.
Những lời tâm sự của Từ Hải với Kiều không chỉ đơn thuần là lời vợ chồng hay tình nhân nói với nhau mà đó là lời tâm sự của những người “tâm phúc tương thông”, của người trượng phu với tri kỉ của mình. Những lời đó đã khẳng định rằng Từ Hải quả là một người anh hùng với khí chất hơn người, chí hướng lớn lao. Đó quả thật là người anh hùng đầy khát vọng, ý chí kiên cường đúng như những gì Nguyễn Du mong mỏi.
Kết thúc đoạn trích là hình ảnh quyết chí ra đi vì nghiệp lớn của Từ Hải:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Cánh bằng tiện gió cắt lìa dặm khơi”
Chàng vừa dứt lời, liền ra đi, vô cùng kiên quyết và dứt khoát, không chần chừ, không để tình cảm lung lạc ý chí của mình. Tính cách này chúng ta đã từng chứng kiến khi chàng chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, vô cùng dứt khoát và quyết liệt. Chàng ra đi được ước lệ ví von như cánh chim bằng, đặt trong không gian to lớn “dăm khỏi”, ta thấy hình ảnh chàng Từ như tượng trưng cho người anh hùng với lý tưởng cao đẹp, phi phàm, mang tầm vóc vũ trụ.
Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc họa thật rõ nết hình ảnh người anh hùng Từ Hải “đội trời đạp đất ở đời”. Bằng bút pháp ước lệ tài hao của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được ý chí lớn lao của người anh hùng Từ Hải. Ý chí, lý tưởng ấy thật mãnh kiệt, kiên trung và to lớn, khẳng định vị thế của một người anh hùng mang tầm vóc của vũ trụ.
Đoạn trích đã vẽ lên hình ảnh người trượng phu quyết chí ra đi vì chí lớn, vì lý tưởng của mình với lời hứa hẹn trở về vinh quang. Nó thật đúng với ước mong của Nguyễn Du về một người anh hùng sẽ dám đứng lên chống lại cường quyền, mang lại hạnh phúc và đòi lại công bằng trong xã hội.
Từ xưa, chí nam nhi “đầu đội trời, chân đạp đất” đã được đề cao, trong văn học cũng rất nhiều tác giả viết về chí khí đó. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, ông đã xây dựng hình tượng người anh hùng Từ Hải với khí phách kiên cường, hiên ngang luôn làm nên việc lớn. Đoạn trích ” Chí khí anh hùng” đã thể hiện vẻ đẹp chí khí phi thường, mưu cầu nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải quyết tâm dứt áo ra đi.
Đọc “Truyện Kiều”, ta biết được Kiều hai lần bị vào lầu xanh, số phận đã đưa đẩy Kiều hết lần này đến lần khác khiến nàng rơi vào tuyệt vọng. Nhưng lần thứ hai Kiều bị đẩy vào lầu xanh thì may mắn thay Từ Hải bỗng xuất hiện và đưa nàng ra ngoài thoát khỏi cảnh ô nhục này. Từ Hải đã giúp nàng ” Báo ân báo oán” với những kẻ trước đây đã hãm hại nàng cũng như với người đã giúp nàng. Hai người đã có cuộc sống hạnh phúc cùng nhau. Nhưng với người đàn ông có bản lĩnh lớn, chàng không bằng lòng với cuộc sống êm đềm vậy, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích ” Chí khí anh hùng” được trích từ câu 2213 đến câu 2230 trong tác phẩm.
Trước tiên, bốn câu thơ đầu nêu lên bối cảnh và lí do dẫn đến cuộc chia ly giữa Kiều và Từ Hải:
” Nửa năm đương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
Câu thơ đầu tiên cho ta thấy được Kiều và Từ Hải mới sống với nhau nửa năm với cuộc sống vô cùng êm đềm, tình yêu giữa hai người nồng nàn, say đắm. Nửa năm là khoảng thời gian ngắn hai người sống bên nhau, đây có lẽ là thời gian Kiều được sống bình yên và hạnh phúc nhất trong suốt mười lăm năm lưu lạc. Bởi trước đó, dù Kiều cũng từng sống với Thúc Sinh nhưng nàng chỉ làm vợ lẽ. Sự yêu thương của Thúc Sinh không mang lại cho nàng sự an toàn trọn vẹn bởi Kiều vẫn bị Hoạn Thư – vợ cả hành hạ. Nhưng sau nửa năm đó Từ Hải lại có ý định muốn ra đi thực hiện lí tưởng. “Trượng phu” là chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng, tác giả cũng muốn tỏ lòng khâm phục và ca ngợi Từ Hải. “động lòng bốn phương” chính là chí hướng mà Từ Hải đang muốn tung hoành thiên hạ. Đó cũng chính là chí lớn của người đàn ông sống trong thời trung đại, mong muốn phương trời tự do, vùng vẫy khắp nơi, quyết lập sự nghiệp phi thường. Từ Hải đã vô cùng dứt khoát và cuộc sống vợ chồng không thể giữ chân được chàng. Tư thế của chàng khi ra đi chính là “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” chàng một mình, một gươm, một ngựa đi liền một mạch, dứt khoát. Chàng mang tư thế của con người tự tin, làm chủ phương trời tự do. Tác giả đã đặt nhân vật trong sự tương phản với không gian rộng lớn “trời bể mênh mang” với hình ảnh “thanh gươm yên ngựa” chỉ một mình. Hình ảnh con người hiện lên không hề nhỏ bé mà sánh ngang cùng vũ trụ rộng lớn. Bốn câu thơ đầu đã miêu tả cuộc sống hạnh phúc của Kiều và Từ cùng với đó là chí lập công danh của người anh hùng.
Mười hai câu thơ tiếp theo chính là cuộc đối thoại giữa Kiều và Từ Hải để qua đó ta cũng thấy tính cách của anh hùng khi ra đi vì sự nghiệp lớn. Câu nói của Kiều:
” Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,”
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
đã thể hiện tâm trạng cũng như tâm lí của Kiều không chỉ yêu mà còn hiểu, khâm phục kính trọng Từ. Cụm từ “Phận gái chữ tòng” ở đây chính là quan niệm phong kiến thời xưa: “Phu xướng phụ tùy, xuất giá tòng phu”, Kiều đã nguyện gắn bó cuộc đời của nàng với Từ Hải. Thúy Kiều ý thức được bồn phận của người vợ mà cũng thể hiện tình yêu với chồng. Nàng muốn níu giữ tình yêu đó mà quyết một lòng đi theo chồng. Trước mong muốn đó của Kiều, Từ đã nói rằng:
“Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”
Từ đã nói rằng, bây giờ hai người đã hiểu lòng nhau, coi nàng là người tri âm, tri kỉ của mình. Từ Hải khuyên Kiều nên vượt lên thói tầm thường nhi nữ và chàng đưa ra lời hứa của mình: Bao giờ mười vạn tinh binh, tiếng chiêng, bóng tinh rợp đường để đón nàng thì mới thỏa mãn. Từ đã đưa ra một viễn cảnh vô cùng tốt đẹp và hạnh phúc giữa hai người. Chàng muốn làm nên sự nghiệp lớn xuất chúng và hứa sẽ trở về để đón nàng “rước nàng nghi gia”. Mong nàng hãy chờ đợi một năm bởi chàng không biết là sẽ đi đâu mà nàng đi theo sẽ càng vướng bận. Chàng không muốn Kiều vất vả vì mình.
Hai câu thơ cuối thể hiện sự dứt áo ra đi của Từ Hải:
” Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”
Từ Hải mang theo thái độ và cử chỉ vô cùng dứt khoát, mạnh mẽ không chần chừ, do dự. Viễn cảnh không gian ra đi của Từ qua hình ảnh “gió mây” và “dặm khơi” để gợi không gian rộng lớn, kì vĩ, tự do. Hình ảnh “chim bằng” tượng trưng cho người anh hùng có lí tưởng cao đẹp, phi thường sánh ngang cũng tầm vóc vũ trụ. Câu thơ đã thể hiện ước mơ về người anh hùng của Nguyễn Du với bản lĩnh, khí phách phi thường.
Qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng Từ Hải với khát vọng và chí lớn của bậc nam nhi. Đọc những câu thơ trong đoạn trích, người đọc hiểu và khâm phục chí làm trai của nam nhi thời trung đại.
Hội ngộ – rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là qui luật tự nhiên trong đời sống con người và cũng như là qui luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời. Chẳng thế mà chia li đã trở thành thỉ tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi; Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?” đến “Vầng trăng ai xẻ làm đôi; Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mĩ). Ta vẫn bắt gặp những giọt nước long lanh, nóng bỏng, sáng ngời của kẻ ở – người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ không như:
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san.
Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa. Đoạn Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) thuộc phần gia biến và lưu lạc trên đoạn trường mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đại diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải quyết bằng lời của tác giả.
Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, trong hoàn cảnh cũng rất đặc biệt, Thuý Kiều – Từ Hải đã tìm thấy sự hoà hợp về tâm hồn của nhau, ở họ vừa có sự thấu hiểu chân thành vừa có sự đồng cảm cho nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy tạo nên một kết thúc có hậu của miền cổ tích khi:
Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.
Trước khi đi vào tìm hiểu đoạn trích, ta hãy hiểu xem con người này có gì đặc biệt mà Nguyễn Du giành nhiều ưu đãi khi xây dựng Từ Hải là người anh hùng lí tưởng. Một ngựa, một gươm – Từ Hải đã vung lên lưỡi gươm công lí cứu vớt những con người khốn khổ, và chắ cánh cho ước mơ hoài bão của họ bay cao, bay xa mãi.
Sự xuất hiện một nhân vật mới trên chặng đường số phận của Thuý Kiều lần này mang một ý nghĩa giá trị nghệ thuật đặc biệt.
Hình tượng Từ Hải không chỉ phản ánh một quan niệm mới mẻ, tự do về quan hệ luyến ái nam nữ:
Một đời được mấy anh hùng
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi
Chính là lời nói giản dị, chân thành, trân trọng Thuý Kiều của Từ Hải đã là lời tỏ tình tế nhị kín đáo mà phá vỡ khoảng cách vốn rất dễ xuất hiện giữa nhân vật anh hùng với con người bình thường như Kiều. Có thể nói rằng Nguyễn Du thật có biệt tài xây dựng, khắc hoá tính cách từng nhân vật một cách đậm nét là rõ ràng. Đặc biệt là nhân vật Từ Hải. Hơn bất cứ những hình tượng nào khác trong tác phẩm, Từ Hải phản ánh khát vọng tự do một khuynh hướng tự do không chỉ vượt khỏi lễ giáo, đạo đức chính thống mà còn là một người nổi loạn đối lập với trật tự chính trị phong kiến. Hình tượng Từ Hải – con người đã san phẳng bất bình, bênh vực người bị áp bức bằng nghĩa khí và tài năng cá nhân – tạo nên nội dung phong phú sâu sắc của Truyện Kiều.
Từ Hải dường như đã bẻ gãy xiềng xích mà xã hội phong kiến trói buộc con người, chàng phủ định chính quyền nhà vua, và đối với chàng tự do cao hơn hết thảy:
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!
Với khí thế ngang tàng của sự tự do, không phải là cảnh:
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Mà lại cái tư thế hiện ngang giữa đất trời, thoả chí anh hùng:
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Hình ảnh cây cung và thanh kiếm đã tạo nên một nét mới trong tính cách của Từ Hải. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải cũng có một tâm hồn cao thượng và đượm chất thơ. Nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm Từ Hải còn làm độc giả say mê bởi cái cốt cách của một kẻ ngang tàng, hào phóng.
Nguyễn Du xây dựng Từ Hải là nhân vật lí tưởng có cốt cách phi thường, nhưng đứng trước Kiều “Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng”. Tuy nhiên chàng luôn đứng trên lập trường và lợi ích của cộng đồng, tình cảm và lí tưởng của chàng luôn thống nhất chứ không đồng nhất. Vì vậy mà:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương,
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.
Sống trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi ấm tình cảm vợ chồng ở độ mặn nồng, đằm thắm. Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp lớn, chí làm trai mà theo như Nguyễn Công Trứ:
Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Điểm này ở Từ Hải đã cho thấy sự phù hợp trong tính cách của chàng đó là đội trời đạp đất ở đời. Tư thế ra đi của Từ Hải dứt khoát, không có chút lưu luyến – bịn rịn như Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, không có lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Mà ở đoạn trích Chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), người trượng phu mang trong mình tầm vóc lớn lao của thời đại giao cho, đối lập với một không gian bao la; trông vời trời bể mênh mang là tầm vóc của người anh hùng: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong. Chỉ mới bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khắc hoạ một nhân vật, người anh hùng bằng xương bằng thịt. Bởi miêu tả là người anh hùng cho nên ngôn ngữ của Nguyễn Du là sự kính phục, trân trọng. Cách miêu tả cũng khác, không gian, thời gian được mở rộng để phù hợp với khí phách của nhân vật chăng?
Người anh hùng ra đi không muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói của thê tử.
Nàng rằng: phận gái chữ tòng.
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu – thê quyến luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm trọn bổn phận làm vợ của mình, mà không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc tương tư tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng động viên Thuý Kiều ở nhà yên tấm đợi tin vui:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chỉ làm bận tâm thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một hai năm vội gì. Thế rồi chàng:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Hình con chim bằng được lấy từ điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cách làm động nước trong ba ngàn dặm, cho những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây.
Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự do thoả chí vẫy vùng, không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó một không gian nhỏ bé thường ngày của người bình thường. Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, đứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứt áo ra đi, đã lìa… Ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dung điển cố, điển tích… và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, bằng tiện…
Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy, mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại Nguyễn Du sống – khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà nói lên được toàn bộ chí khi anh hùng của Từ Hải.
—/—
Trên đây là các bài văn mẫu Cảm nhận Chí khí anh hùng học sinh giỏi do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!