/tmp/limer.jpg
Để tìm hiểu sâu hơn về giá trị tác phẩm Làng, mời các em tham khảo một số bài văn mẫu Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn Làng của Kim Lân sau đây. Hi vọng với các bài văn mẫu ngắn gọn, chi tiết, hay nhất này các em sẽ có thêm tài liệu, cách triển khai để hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất!
Nội dung bài viết
1. Yêu cầu
– Phân tích biễu diễn cốt truyện.
– Cần làm rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai được miêu tả qua cốt truyện đó.
– Qua phân tích thấy được tài năng kể chuyện của Kim Lân và cũng hiểu rõ vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam với làng, với nước trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.
2. Gợi ý
– Đọc kĩ toàn tác phẩm, nắm vững cốt truyện, đặt câu hỏi nhận xét, đánh giá về nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Kim Lân qua truyện ngắn Làng.
– Cần đặt câu hỏi làm rõ mối quan hệ giữa nhân vật ông Hai với cốt truyện : Diễn biến cốt truyện chính là diễn biến tâm trạng của ông Hai.
– Phân tích diễn biến tâm trạng của ông Hai.
– Đặt câu hỏi nhận xét nghệ thuật kể chuyện sinh động của Kim Lân.
– Chú ý kết hợp nghị luận với tự sự và miêu tả.
3. Lập dàn ý
a. Mở bài
– Giới thiệu tác phẩm Làng của Kim Lân.
– Xây dựng cốt truyện là yếu tố nghệ thuật góp phần chính vào thành công của truyện.
b. Thân bài
Cốt truyện của truyện ngắn Làng của Kim Lân gắn với tâm trạng ông Hai.
– Diễn biến cốt truyện :
– Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng.
– Tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng.
+ Trước khi ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Ông yêu làng, tự hào về làng, hay khoe làng. Ông tin tưởng vào thắng lợi cuộc kháng chiến do Chính phủ và Cụ Hồ lãnh đạo.
+ Khi ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc vào những ngày sau đó. Tình yêu làng của ông bị đặt vào tình huống gay cấn, đầy thử thách.
+ Khi ông Hai biết sự thật : tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, ông sung sướng báo tin làng ông không theo giặc, nhà mình bị giặc đốt nhẵn.
– Nghệ thuật dựng cốt truyện Làng
Sự phát triển của cốt truyện hợp lí : diễn tả được chính xác tâm lí người nông dân Việt Nam nhữlng ngày đầu chống Pháp.
Sự phát triển của cốt truyện cũng là sự phát triển tâm trạng nhân vạt chính (ông Hai) trong tình huống đặc biệt.
Cốt truyện được diễn tả sinh động thành câu chuyện có giá trị nghệ thuật bằng biện pháp độc thoại nội tâm, bằng đối thoại,… Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật đặc sắc.
Nhờ đó, truyện đã xây dựng được một nhân vật tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam những ngày đầu chống Pháp với tình yêu làng, yêu nước sâu sắc.
c. Kết bài
Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã thể hiện tài năng kể chuyện của Kim Lân.
Truyện cũng cho ta hiểu về tình yêu làng gắn với tình yêu nước cao cả của người nông dân Việt Nam.
1. Mở bài
– Giới thiệu tác phẩm Làng của Kim Lân.
– Xây dựng cốt truyện là yếu tố nghệ thuật góp phần chính vào thành công của truyện
2. Thân bài: cốt truyện của truyện ngắn Làng của Kim Lân gắn với tâm trạng ông Hai.
– Diễn biến cốt truyện:
+ Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng.
+ Tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng.
./ Trước khi ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Ông yêu làng, tự hào về làng, hay khoe làng. Ông tin tưởng vào thắng lợi cuộc kháng chiến do Chính phủ và Cụ Hồ lãnh đạo.
./ Khi ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc vào những ngày sau đó. Tình yêu làng của ông bị đặt vào tình huống gay cấn, đầy thử thách.
./ Khi ông Hai biết sự thật: tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, ông sung sướng báo tin làng ông không theo giặc, nhà mình bị giặc đốt nhẵn.
– Nghệ thuật dựng cốt truyện Làng
+ Sự phát triển của cốt truyện hợp lí : diễn tả được chính xác tâm lí người nông dân Việt Nam những ngày đầu chống Pháp.
+ Sự phát triển của cốt truyện cũng là sự phát triển tâm trạng nhân vạt chính (ông Hai) trong tình huống đặc biệt.
+ Cốt truyện được diễn tả sinh động thành câu chuyện có giá trị nghệ thuật bằng biện pháp độc thoại nội tâm, bằng đối thoại,… Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật đặc sắc.
+ Nhờ đó, truyện đã xây dựng được một nhân vật tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam những ngày đầu chống Pháp với tình yêu làng, yêu nước sâu sắc.
3. Kết bài:
– Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã thể hiện tài năng kể chuyện của Kim Lân.
– Truyện cũng cho ta hiểu về tình yêu làng gắn với tình yêu nước cao cả của người nông dân Việt Nam.
Tình yêu đất nước quê hương luôn là một trong những nguồn cảm hứng bất tận dành cho các nhà văn nhà thơ. Nó đã trở thành một kim chỉ nam xuyên suốt các tác phẩm thời bấy giờ. Và thật là thiếu sót nếu như lướt qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “làng” của nhà văn Kim Lân. Đây chính là một điển hình tiêu biểu cho tình yêu đất nước quê hương, thứ tình cảm thiêng liêng cao quý nhất trên đời.
Cốt truyện được coi như xương sống của một con người nó chi phối mạch nguồn cảm xúc của toàn bộ tác phẩm. Ở đó nhân vật thể hiện những suy nghĩ, hành động của mình từ đó thể hiện toàn bộ tư tưởng chủ đề mà người viết muốn gửi gắm. Ở trong truyện ngắn Làng nhà văn Kim Lân đã xây dựng một cốt truyện vô cùng đặc sắc nó gắn liền với diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai. Trước khi nghe tin dữ làng chợ Dầu theo giặc ông là một người lạc quan yêu đời, luôn một lòng tự hào về quê hương bản xứ của mình. Thế nhưng khi nghe tin làng mình theo Tây tâm trạng ông bỗng chốc thay đổi từ chỗ tự hào dần chuyển sang mặc cảm và phẫn uất, thậm chí tủi nhục cay đắng. Để rồi cuối cùng khi có tin cải chính ông quay lại trở về là một người vui mừng khôn xiết. Diễn biến này vô cùng hợp lí và logic lại phù hợp với mạch truyện và tâm lí nhân vật.
Nghệ thuật xây dựng cốt truyện hợp lí và đặc sắc nó khắc họa hết tâm lí người nông dân trong xã hội cũ mà cụ thể là ông Hai. Sự phát triển của tâm lí nhân vật trùng khớp với sự phát triển của cốt truyện. Đặc biệt nghệ thuật xây dựng tình huống độc thoại nội tâm và đối thoại nội tâm bằng những ngôn ngữ vô cùng đặc sắc đã phần nào để độc giả hình dung được một bức tranh người nông dân trong những ngày đầu chống thực dân Pháp.
Tất cả tâm tư tình cảm của ông Hai đều hướng về làng về nước. Điều đó thể hiện rất rõ thông qua những tình huống khác nhau. Trước khi nghe cái tin dữ làng chợ Dầu theo giặc ông Hai là một người luôn tự hào và khoe về cái làng của mình. Nào là đường làng ông lát đá xanh, nhà ngói san sát sầm uất như trên tỉnh, nào là có cái cột phát thanh cao bằng ngọn tre chiều chiều cả làng lại thi nhau nghe tin đánh giặc. Ông cũng vô cùng yêu nơi mình chôn nhau cắt rốn nên mặc dù có lệnh tản cư ông vẫn khăng khăng muốn bám đất giữ làng cùng bộ đội nhưng vì hoàn cảnh riêng nên ông phải đi. Những năm tháng sống trên vùng tản cư niềm vui duy nhất của ông đó là nhớ lại quãng thời gian gắn bó với mảnh đất quê hương, nhớ lại những ngày chiến đấu cùng anh em và chạy lên phòng thông tin nghe tin tức về làng chợ Dầu.
Thế nhưng đúng lúc niềm vui đến thì cũng là lúc ông nghe tin đồn thất thiệt “Cả làng chợ Dầu Việt gian theo Tây”. Ông cố gắng xác minh lại trong cái tin ấy xem có phải là thất thiệt không. “liệu có thật không hở bác? Hay chỉ là….” nhưng đáp lại ông chỉ là cái gật đầu xác nhận và những lời nói gay gắt “ Cả làng nó theo Tây từ thằng chủ tịch trở xuống”. Mặt ông lão như tái đi, cổ họng nghẹn ắng lại ông như lặng đi đến không thể nổi.
Bình thường ông là người hay nói vui tính nhưng hôm nay ông trở về lầm lũi rồi nằm vật ra giường. Lũ con thấy vậy cũng chẳng dám ho he chào hỏi cười đùa. Trong đầu ông bây giờ chỉ còn tồn tại hai chữ “việt gian”, “bán nước”, “theo Tây”. Ông gắt gỏng ngay cả với người đầu ấp tay gối với mình khi được hỏi về cái tin theo tây ấy. Nỗi đau dường như càng xéo xắt khi bà chủ nhà cũng có ý muốn đuổi cả nhà ông đi. Ông như lặng người nhìn đàn con mà đau xót, “ừ thì ra nó là con làng Việt gian đấy”. Suốt mấy ngày ông chẳng dám vác mặt ra đường vì sợ sẽ gặp phải những cái nhìn soi mói, những cải chỉ chỏ chỉ vì là dân làng Việt gian. Nỗi đau đớn xé lòng đã đẩy ông đi đến một quyết định đầy đau xót “làng thì yêu thật nhưng nếu làng theo tây thì phải thù”. Ông nói chuyện với các con nhưng thực ra đó là cuộc đối thoại nội tâm đầy cắn rứt. Mỗi câu nói ra ông cảm thấy mình như nhẹ đi bội phần. Ông yêu làng hướng về làng dù có muôn trùng xa cách.
Niềm vui như trở về với con người ấy, gia đình ấy khi ông nghe tin làng chợ Dầu theo tây được cải chính bởi chính ông chủ tịch xã. Ôi cái cuộc đời này sao mà đẹp đến thế nó như khiến ông hồi sinh thêm một lần nữa. Cái mặt buồn thỉu mấy ngày nay đã rạng rỡ hẳn lên. Ông mua kẹo chia cho các con rồi lại chạy khắp nơi để thanh minh rằng làng mình không bán nước. Ông còn khoe cái tin làng mình bị giặc đốt. Dường như sự mất mát về của cải không làm ông đau đớn bằng việc đánh mất đi niềm tin chỗ dựa dẫm về tinh thần.
Sự lặp đi lặp lại của tâm lí nhân vật ông Hai cũng vô cùng hợp lí nó là đại diện cho suy nghĩ của tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội cũ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Bằng tài năng của mình Kim Lân đã tạo nên một cốt truyện vô cùng đặc sắc và thú vị. Nó chính là cái tài mà không phải nhà văn nào cũng có thể làm được.
Nói về những nhân vật có lòng yêu nước sâu sắc trong các tác phẩm vãn học, không thể không kể đến nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.
Chính cách tạo ra tình huống truyện độc đáo để bộc lộ tính cách nhân vật là yếu tố nghệ thuật góp phần vào thành công của truyện.
Đối với mỗi tác phẩm văn xuôi thì việc xây dựng cốt truyện luôn là cần thiết và qua đó nhân vật có thể bộc lộ tâm trạng, hành động của mình. Trong tác phẩm Làng, Kim Lân đã xây dựng được cốt truyện khá là hợp lí và đặc sắc. Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai gắn liền với diễn biến cốt truyện. Trước khi ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông rất yêu làng, luôn tự hào, thích khoe làng. Nhưng khi ông nghe tin làng Dầu theo giặc, ông như biến thành một con người khác ; thay vào tình yêu làng mạnh .mẽ, lòng tự hào về làng là sự chua xót đắng cay và tủi nhục. Cái tin thất thiệt làm đau xé lòng ông Hai. Cuối cùng, tâm trạng ông Hai trở lại vui vẻ bởi tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính. Ông kể về nhà ông bị đốt với niềm vui lổn, điều này trái với quy luật tâm lí thông thường nhưng lại hợp với lô-gíc tâm lí nhân vật ông Hai, hợp với mạch truyện. Thật là một sự kết hợp đột ngột và hay.
Nghệ thuật xây dựng cốt truyện Làng đặc sắc bởi sự phát triển của cốt truyện hợp lí, nó đã diễn tả được chính xác tâm lí người nông dân Việt Nam trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp và cụ thể ở đây là nhân vật ông Hai. Sự phát triển của cốt truyện cũng là sự phát triển tâm trạng của nhân vật chính – ông Hai trong tình huống đặc biệt. Hơn nữa cốt truyện được diễn tả rất sinh động, thành câu chuyện có giá trị nghệ thuật bằng những biện pháp nghệ thuật như độc thoại nội tâm và đối thoại,… với ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ của nhân vật rất đặc sắc. Có lẽ vì vậy mà truyện đã xây dựhg được một nhân vật tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong nhữhg ngày đầu chống thực dân Pháp với tình yêu làng, .yêu nước mạnh mẽ và sâu sắc.
Tất cả tâm tư, tình cảm của ông Hai đều hướng về làng, về đất nước. Đấy là điều mà ta nhận thấy rõ nhất qua diễn biến tâm trạng trong những tình huống khác nhau của câu chuyện. Trước khi nghe được cái tin “thất thiệt” làng Chợ Dầu theo giặc, ông Hai yêu làng biết bao ; ông luôn tự hào về làng và hay khoe khoang là làng mình giàu có. Nào là có nhà ngói san sát, sầm uất như trên tỉnh ; đường làng lát toàn bằng gạch đá xanh ; khi kháng chiến bùng nổ, cả làng Chợ Dầu tham gia rất tích cực, có phòng thông tin rất lớn. Ông là người rất yêu làng, vốn là người rất sôi nổi, tháo vát cho nên việc đi tản cư khiến ông tù túng bó buộc trong cảnh sống đơn điệu, tẻ nhạt và bưng bít. Ông nhớ cái làng của mình hơn, cái làng đã gắn bó một đời với ông, với những kỉ niệm vui buồn riêng. Ông luôn nghĩ về cái làng của mình, nghĩ đến những ngày tháng vui vẻ làm việc với anh em. Ông rất muốn về làng để được tham gia vào kháng chiến để cùng anh em làm việc nhưng giờ đầy những công việc ấy chỉ trong tưởng tượng. Niềm vui duy nhất của ông là ra phòng thông tin nghe ngóng. Cái nắng gay gắt lại làm ông vui : “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó !”. Đúng vào lúc tâm trạng ông đang phấn khởi thì nhận được một tin sét đánh : cả làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây. Quá bất ngờ, ông Hai choáng váng, cái điều không bao giờ ngờ tới đã xảy ra. Ông vẫn chưa tin làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây, cố hỏi lại với hi vọng là tin đồn : “Liệu có thật không hở bác ? Hay chỉ lại…”. Cái tin thất thiệt làm đau xé lòng ông : “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi như đến không thở được.”. Bình thường ông vốn là người vui tính, hay chuyện, hay nói, vậy mà giờ đây ông như biến thành người khác. Bao nhiêu căm giận, chua xót, tủi nhục cứ chực ào ra trong ông. Làng không còn là những làng thôn ngõ xóm đẹp đẽ nữa mà là cái gì đó lớn lao hdn, là danh dự. Hiện giờ trong tâm trí ông chỉ còn hai chữ “Việt gian ; bán nước”. Nhìn lũ con ông càng tủi thân : “nước mắt ông lão cứ giàn ra”, “các con ông cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư….”. Một không khí căng thẳng bao trùm đè nặng gia đình ông. Suốt mấy ngày ông không dám ló mặt ra đường, trong lòng nóng như lửa đốt. Rồi đây người ta sẽ xua đuổi, sẽ căm hờn, ông và gia đình sẽ muôn đời chịu tiếng xấu, ông càng căng thẳng hơn khi bà chủ nhà báo tin người làng Chợ Dầu sẽ bị đuổi. Mâu thuẫn nội tâm bị đẩy đến tột cùng với sự đấu tranh khá tàn nhẫn trong con người ông. Có lúc ông muốn trở về làng nhưng lập tức phản đối ngạy : “Không thể được ! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Ông là người nông dân có tình yêu nước lớn lao. Quá đau buồn, ông nói chuyện với con nhưng thực ra là để giãi bày tâm sự của lòng mình. Tâm trạng ông Hai được thể hiện gián tiếp qua ngôn ngữ đối thoại với đứa con, nói với con nhưng chính là đang nói với mình. Mỗi lần nói ra đôi câu như thấy nỗi khổ trong lòng ông vơi đi bội phần. Ông Hai yêu làng, luôn hướng về làng dù xa cách và tấm lòng ông luôn thuỷ chung với Cụ Hồ, với kháng chiến.
Niềm hạnh phúc lớn nhất của ông là khi nghe tin làng được cải chính. Sự sung sướng của ông lên đến tột độ. Ông trở về với con người bình thường : “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy…”. Ông bô bô báo tin làng không theo giặc “Láo ! Láo hết ! Toàn là sai sự mục đích cả.”. Ông còn khoe cả tin làng mình bị giặc đốt. Ngôi nhà đối với người nông dân là vô cùng quan trọng, nó là tất cả tài sản, là của cải cả một đời chân lấm tay bùn, mồ hôi nước mắt. Lẽ ra khi nghe tin nhà bị đốt ông phải vô cùng buồn và tiếc, thế nhưng ông Hai lại vui đến cực độ. Có lẽ niềm vui lớn về danh dự của làng đã át hẳn nỗi buồn riêng tư. Vì thế mà ông Hai cứ-múa tay lên mà khoe cái tin làng không phải Việt gian, nhà ông bị đốt nhẵn. Ông Hai là người yêu lầng tha thiết, sâu sắc, tình yêu làng của ông gắn bó với tình yêu quê hương đất nước.
Qua truyện ngắn Làng ta thấy được hình ảnh một người nông dân thuần phác, nhiệt thành, trong trái tim nhân hâu của ông luôn có làng quê đất nước. Tình cảm trung hậu và sâu sắc ấỵ chính là phẩm chất của người nông dân ở nhân vật ông Hai.
Trong văn bản tự sự, cốt truyện đóng vai trò đặc biệt quan trọng, chính cốt truyện là hạt nhân giúp cho tư tưởng và ý đồ của nhà văn được truyền đạt tới người đọc một cách đầy đủ nhất. Cốt truyện giúp nhân vật bộc lộ tính cách qua các sự kiện, cao trào mang tính thử thách, qua đó hoàn thiện nội dung tư tưởng cho tác phẩm. Một văn bản hay phải có một cốt truyện độc đáo và hấp dẫn, lôi cuốn được sự tò mò của người đọc khi thưởng thức nó, bởi vậy mà nhà văn phải rất tài năng mới có thể xây dựng nên một cốt truyện có khả năng thu hút cao. Tiêu biểu trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện phải kể đến nhà văn Kim Lân với tác phẩm tiêu biểu là truyện ngắn “Làng”.
Truyện ngắn “Làng” xoay quanh nhân vật ông Hai với tình yêu quê hương sâu sắc. Việc xây dựng cốt truyện theo tâm lý nhân vật đặt trong hoàn cảnh điển hình tạo nên sự hấp dẫn, sinh động cho tác phẩm. Cốt truyện được thể hiện thông qua những diễn biến tâm trạng của nhân vật trước, trong và sau khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.
Trước khi nghe tin làng mình theo giặc, ông đã đi tản cư lên một vùng mới. Những lúc lao động hay lúc nghỉ ngơi ông luôn nghĩ về làng của mình, ông luôn nhớ và tự hào về những năm tháng được cùng anh em, dân làng mình đắp đập, xây ụ chống giặc: “A, sao độ ấy mà vui thế, ông thấy mình như trẻ ra. Cũng cuốc, bong phèng, cũng đào, cũng cuốc mê mẩn suốt ngày”. Ông nôn nao, náo nức khi nghĩ về những hầm đường bí mật của làng, những chòi gác những chòi gác đầu làng. Dẫu xa quê nhưng bóng hình làng ông vẫn luôn nâng niu, trân trọng và dõi theo, tình cảm với làng quê với ông nó gắn bó như tình thân ruột thịt vậy. Ông tự hào về những chiến công của người dân đất nước, từ đứa trẻ thủ đô, nữ sinh xung phong đến anh thanh niên ra trận, họ đều giỏi giang giành những chiến công về cho cách mạng. Ruột gan ông Hai như múa cả lên, vui đáo để bởi những người làm cách mạng giỏi: “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”. Ông căm ghét bọn Tây đến nỗi không lúc nào là không nguôi căm tức, hận thù: “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó! …. Ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù”. ” Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư cứ tản cư… Hay đáo để”.
Có lẽ, mọi chuyện sẽ tự nhiên như thế, ông vẫn yêu ngôi làng của mình như thế nếu không có một sự éo le xảy ra. Đó cũng là đỉnh điểm tạo nên nút thắt cho câu chuyện yêu làng của ông Hai, đó là tin làng chợ Dầu theo giặc. Người đàn bà dưới xuôi lên mang theo tin dữ: “Nó rút ở Bắc Ninh về qua chợ Dầu nó khủng bố ông ạ”. Nghe tiếng Chợ Dầu khủng bố lão không tin vào tai mình, cố trấn an rồi lắp bắp, giọng như lạc hẳn như để cố kiểm tra lại cái tin nóng bỏng tay kia: “Nó… Nó vào chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng? …Có thật không hở Bác”. Nghe người đàn bà thông báo tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai như nghe tiếng sét giữa trời quang, ông đau đớn không dám tin vào tai mình, rồi trong nỗi bẽ bàng ông cố lảng tránh sang chuyện khác để mượn cớ ra về, lòng ông Hai vô cùng trĩu nặng mối bận tâm. Ông đã yêu làng mình như thế, tin làng mình đến như vậy nên làm sao không đau, không buồn cho được khi nghe cái tin dữ dội ấy. Từ tình huống độc đáo này mà vẻ đẹp trong sâu thẳm trái tim nhân vật mới được bộc lộ rõ. Những độc thoại nội tâm, những màn đối thoại không lời lại càng đặc tả tâm trạng đau đớn của người nông dân chất phác mảng trong mình tình yêu làng vô bờ bến ấy. Khi về đến nhà, ông Hai nằm vật ra trên giường chẳng buồn nói năng gì, nhìn lũ con ông buồn lòng, nghĩ về làng ông lại càng xót xa. Điểm mặt từng người trong ngôi làng ấy, ai cũng đều yêu nước, tại sao lại đổ đốn ra như vậy? Nước mắt đớn đau của lão cứ giãn ra trong nỗi tủi hổ, nhục nhã, những lắng lo cho người làng mình, lắng lo cho gia đình cứ cồn cào trong lão. “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước… Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?…”. Ông đắng cay với những nỗi dằn vặt, nghĩ suy:” Hay là quay về làng ?… Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ… Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây.”. Dù yêu làng, yêu quê hương mình da diết đấy thôi, nhưng làm sao ông có thể trở về cái nơi đã phản cách mạng, đã phản cụ Hồ được cơ chứ, với ông “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, tình cảm của người nông dân kia vẫn luôn như vậy, chưa bao giờ hết yêu ngôi làng thân thuộc với những con người xưa kia hồn hậu, giàu tình thần chiến đấu, nhưng nếu làng đã theo bọn giặc tàn ác kia thì không thể trở về được, trở về lúc này là sai, là nhục nhã, là chấp nhận làm kiếp trâu ngựa, nô lệ cho chúng nó. Trong lý tưởng yêu nước của người nông dân ấy, luôn một lòng trung thành và thủy chung với ánh sáng của cách mạng cụ Hồ. Mỗi nghĩ suy, mỗi lời nói của ông Hai đều hướng về cách mạng, về ngôi làng Chợ Dầu yêu quý, về đất nước của ông. Nút thắt trong tình huống bất ngờ ấy tạo nên một dòng tâm trạng đầy đớn đau, khổ sở của nhân vật, qua đó tình yêu làng được thể hiện sâu nặng hơn rất nhiều.
Tưởng chừng như nút thắt trong câu chuyện ấy không thể nào tháo gỡ được khi tâm trạng của nhân vật đầy căng thẳng, vô vàn những mối bận tâm, đầy ắp những mâu thuẫn thì tác giả đã tinh tế làm cho câu chuyện thêm phần ý nghĩa dần khi cởi bỏ nút thắt bằng một tình huống bất ngờ khác. Đó là cái tin làng chợ Dầu được cải chính mà ông được nghe từ người chủ tịch xã. Còn gì vui sướng hơn khi còn người ta đang trong đau khổ đến vật vã bởi những điều tiếng, những nhục nhã mà bấy lâu gánh chịu lại được nhận một tin bất ngờ, hạnh phúc đến vậy. Cái hay ở đây là Kim Lân đã không chọn một niềm vui khác cho nhân vật để khiến ông thoải mái mà tác giả đã biết chọn lọc đúng trọng tâm để giải thoát nỗi sợ hãi, đau đớn bấy lâu trong ông. Nút thắt ở đâu, tháo gỡ ở đấy là cách mà tác giả lựa chọn để tạo nên một cốt truyện hoàn chỉnh, tạo nên sự bất ngờ khiến người đọc càng tò mò muốn khám phá câu chuyện. Niềm vui trong lão đã trở lại, “Cái mặt buồn thiu mọi ngày…..hấp háy”. Ông đi khắp nơi khoe cái tin nhà mình bị đốt như niềm vui của một đứa trẻ khi nhận được quà, ngôi nhà thân thương vốn là thứ tài sản quý giá, là nơi mà người ta mong ngóng gìn giữ nhưng với ông giờ đây nó không còn quan trọng nữa, điều quan tâm lớn nhất bây giờ trong ông là giặc đốt làng nghĩa là làng mình chống lại chúng, là làng mình vẫn luôn theo cách mạng, theo cụ Hồ. Niềm vui lớn khi danh dự làng mình, quê hương mình được lấy lại càng bộc lộ rõ trái tim yêu nước của ông Hai.
Không cần phải có những tình huống quá li kì, kịch tính, đôi khi chỉ cần những chi tiết, tình huống nhẹ nhàng cũng tạo nên sự thành công trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tạo nên một dấu ấn riêng cho đứa con tinh thần của mình. Qua truyện ngắn Làng, Kim Lân đã chứng minh thực tế cho điều đó. Chính cốt truyện hấp dẫn và độc đáo ấy là một xương sống tạo nên giá trị nội dung và nghệ thuật, ý nghĩa mà truyện ngắn mang lại. Tình yêu làng quê, yêu đất nước không chỉ thể hiện qua những trận đánh quyết liệt, những hy sinh xương máu mà còn được thấy quá những nỗi đau, những dằn vặt tâm can và những giọt nước mắt hạnh phúc trong cuộc đời.
Bằng tài năng trong cách xây dựng tình huống truyện, cách bộc lộ những tâm tư sâu kín nhất của nhân vật thông qua độc thoại, độc thoại nội tâm, hành động và nét mặt, điệu bộ…tất cả đã góp phần xây dựng nên một cốt truyện theo dòng tâm lý của nhân vật đầy độc đáo, tạo nên một “Làng” riêng biệt mà khi nhắc đến người ta nghĩ ngay đến nhà văn của những người nông dân – Kim Lân.
“Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”. Từ ngàn đời xưa đến nay, tình yêu đó vẫn luôn thấm sâu trong lòng mỗi người Việt, từ già đến trẻ, từ bác sĩ, kĩ sư, những con người có hiểu biết rộng đến những người nông dân chân lấm tay bùn, quanh năm lầm lụi với công việc đồng áng. Đối với họ, tình yêu nước không thể hiện qua những đóng góp lớn lao về của cải, vật chất mà chỉ đơn giản là niềm tự hào về ngôi làng ngỏ bé nhưng đầy ý chí quyết không đầu hàng giặc của mình. Ông Hai trong tác phẩm “Làng” của nhà văn Kim Lân là một con người như vậy!
Chẳng phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại chọn một người nông dân làm nhân vật chính trong tác phẩm của mình, làm cơ sở để thể hiện tình yêu nước nồng nàn mà không phải là một anh bộ đội cụ Hồ, một cô giao liên quả cảm… Ay là vì ở người nông dân, những con người ở hậu phương, có một cách thể hiện lòng yêu nước khiến bao người mến phục – tình yêu làng xóm.
Tự hào, hãnh diện, đó là những cảm xúc của ông Hai về làn Chợ Dầu vốn nổi tiếng có tinh thần đoàn kết chống giặc mà vì chiến tranh, ông và vợ con phải tời bỏ để đi tản cư nơi khác. Mặc dù vậy, trong suy nghĩ của ông không bao giờ quên được ngôi làng của mình, không bao giờ quên những kỉ niệm tuy vất vả nhưng tràn đầy niềm vui và nghĩa tình của ông khi xưa, đi đến đâu, gặp ai, ông cũng khoe về làng của ông. Ông vui thích với niềm vui nho nhỏ ấy. Cho đến một ngày, ông gặp một đám người tản cư vừa ở Chợ Dầu mới lên và cho hay rằng cả làn Chợ Dầu theo Tây hết rồi, thành Việt gian hết cả rồi! Mới chỉ vừa nghe tin ấy, cố ông Hai “nghẹn ắn hẳn lại, da mặt tê rân rân, ồn lão lặng đi tưởng như đến không thể thở được”. Ông lão bị sốc nặng và tưởng chừng có thể ngất đi vì cái tin như sét đánh bên tai ấy. Ông Hai cố gượng và ngỗi nghe cho thật tỉ mỉ, nào là thằng chánh Bệu hăm hơ lên xe Cam–nhông theo giặc, nào là cả làng vã cờ thần ra hoan hô nữa chứ! Trời ơi, chẳng lẽ chuyện ấy là thật ư? Không thể, không thể thế được, ông lẳng lặng về nhà rồi nằm thu mình trên giường trấn tĩnh lại và suy ngẫm.Ông Hai – một con người sông từng ấy tuổi tại một ngôi làng, quen tất thảy mọi người không thiếu một ai, rõ tính tình ai tôta ai xấu mồng một, gnhe tin làng theo giặc, ông không thể tin, nhưng ông không muốn tin cũng không được, ” ai người ta hơi đau bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì?” – ông nghĩ thầm một cách đau đớn.
Niềm kiêu hãnh, tự hào, hạnh phúc, sung sướng, vui thích khi nghĩ về làng bấy lâu giờ bỗng chốc biến thành cảm gics tủi nhục, thất vọng, đau đớn, xấu hổ, bị mọi người rẻ khinh. Cảm giác ấy cũng những ý nghĩ tồi tệ đến không tưởng tượng được như từng nhát dao khứa vào tim ông, và ông không dám ra đường, dù chỉ là nửa bước. Ông nằm vật nằm vã trên giường như không thể gượng dậy nổi. Chuyện làng Chợ Dầu theo giặc như khối đá đè nặng lòng lão. Ông như mất hết lí trí, trong đầu ông bây không tài nào thoát ly được những ý nghĩ “làng theo Tây, làng Việt gian, lũ bán nước”.Rồi những lời bàn tán xôn xao ngoài đường làm ông khổ tâm vô cũng đến nỗi ông phải tìm đến xó nhà mà ngồi, mà nấp cho đỡ nhục, đỡ xấu hổ, để tránh đi được phần nào cái thực tại oái ăm, ghê tởm đến cực độ kia. Thật, chỉ với một con người có tình yêu nồng nàn với làng, với xóm, với quê hương xứ sở thì mới đau, mới xót, mới tủi hổ đến như vậy.
Vẫn chưa hết, bà chủ nhà, như muốn xát muối vào vết thương ngày một lớn dần kia của hai vợ chông ông Hai, bằng một giọng thân mật đến lạ thường, bà đuổi khéo vợ chồng ông, xỉa khéo vào nỗi buồn u uất đã mấy ngày không nguôi của ông Hai. Bị đẩy đến bước đường cũng, ông Hai thoáng nghĩ sẽ quay về làng, một suy nghĩ rất đỗi tự nhiên đối với một con người không còn nơi nào có thể dung thân, nhưng ông nhanh chóng dập tắt ý nghĩ đó, ông cho rằng về làng là đồng nghĩ với việc trở thành Việt gian, là kẻ bán nước, phản cách mạng, phản cụ Hồ. Thế là nơi cuối cùng có thể quay về cũng bị ông phủi bay không một chút do dự. Một con người vì cách mạng, quan tâm đến nền độc lập, tự do của nước nhà như vậy sao có thể là Việt gian, là bọn bán nước cầu vinh! Trong những lúc tưởng chừng như cuộc đời đến đây là chấm hết, ông dang tay ôm con vào lòng, hỏi những câu mà thực ra ông muốn nói thẳng với nó rằng:
“Làng mình Chợ Dầu con phải nhớ
Cách mạng, cụ Hồ mãi muôn năm!”
Ông thấy tội thay, tủi nhục thay cho chúng khi tưởng tượng ra những cái nhìn hắt hủi, những tiếng mắng xé lòng ông:” Con làng Việt gian!”.
Và cuối cũng thì ông trời cũng không phụ lòng người tốt, nút thắt mấy ngày qua khiến ông Hai mất ăn mất ngủ cũng đã được thào. Sau khi được ông Chủ tịch làng Chợ Dầu lên đính chính lại tin làng theo giặc là “sai sự mục đích” thì trong lòng ông như mở hội. Ông mừng rỡ chạy đi báo chp bác Thứ, cho ông chủ nhà, rồi tất tưởi báo cho mọi người trong làng biết, ông cứ múa tay lên mà khoe tin mằng này, nhìn ông , chắc không ai biết rằng chỉ mới ngày hôm qua đây, ông còn vật vã, trằn trọc trên giường chỉ vì một tin đồn nhảm – làng mình theo giặc.
Một cái kết có hậu cho một người nông dân yêu làng, yêu nước đáng trân trọng đã được Kim Lân viết nên. Thật chẳng quá khi nói rằng bằng ngòi bút sắc bén và chân thực, Kim Lân đã làm cho người đọc không thể rời mắt khỏi trang truyện, người nghe không thể không tập trung: đoc, nghe để cảm nhận được nỗi đau vô hạn, sự tủi nhục khôn tả của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc; nỗi đau đó, sự tủi nhục đó không cần một tính từ cảm xúc nào diễn đạt, Kim Lân với khả năng miêu tả đặc sắc và chính xác tâm lí nhân vật đã làm cho cảm xuacs của ông Hai truyền sang người đọc, người nghe, khiến học không những hiểu mà còn hiểu sâu sắc để rồi hòa chung niềm vui với ông Hai khi tin làng được cải chính. Chắc hẳn ai theo dõi câu chuyện cũng phải nở một nụ cười khi đọc đến đoạn cuối: Nhà ông hai bị giặc thiêu rụi mà ông lại mừng đến khồn tả. Đấy có lẽ là chi tiết nói lên tất cả con người của ông: Một người nông dân có lòng yêu nước thật đáng quý, đáng trân trọng!
—/—
Với các bài văn mẫu Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn Làng của Kim Lân do Top Lời Giải sưu tầm và biên soạn trên đây, hy vọng các em sẽ có thêm những góc nhìn mới mẻ và có cái nhìn tổng quát hơn về tác phẩm. Chúc các em làm bài tốt!