/tmp/exjdt.jpg
– Tô Hoài sinh năm 1920 mất năm 2014, tên khai sinh là Nguyễn Sen
– Quê quán: quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), nhưng sinh ra và lớn lên ở quê ngoại – làng Nghĩa Đô, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghãi Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) trong một gia đình thợ thủ công
– Thời trẻ, ông phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề như làm gia sư, dạy kèm trẻ, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn,… và nhiều khi thất nghiệp
– Năm 1943, ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến, ông làm báo và hoạt động nghệ thuật ở Việt Bắc
– Tô Hoài bước vào con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn và một số cuốn truyện vừa, viết theo dạng võ hiệp nhưng sau đó nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những sáng tác đầu tay.
– Ông là một nhà văn lớn với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục (gần 200 đầu sách với nhiều thể loại khác nhau) trong văn học hiện đại Việt Nam
– Năm 1996, ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
– Các tác phẩm chính: Dế mèn phiêu liêu kí (truyện, 1941), O chuột (tập truyện, 1942), Quê người (tiểu thuyết, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Miền Tây (tiểu thuyết, 1967), Cát bụi chân ai (hồi kí, 1992), Chiều chiều (tự truyện, 1999), Ba người khác (tiểu thuyết, 2006)
– Quan điểm sáng tác: Sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường. Theo ông “Viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật, đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”
– Phong cách sáng tác:
+ Thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục, tập quán của nhiều vùng miền
+ Lối trần thuật sinh động, hóm hỉnh của người từng trải
+ Vốn từ vựng phong phú đưuọc sử dụng đắc địa, tài ba, có sức lay động, lôi cuốn người đọc
1. Hoàn cảnh ra đời
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc, đưuọc tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
2. Tóm tắt
Truyện kể về cuộc đời của vợ chồng A Phủ. Mị là cô gái trẻ đẹp, nhà nghèo, sống ở Hồng Ngài. Cô bị bắt cóc về làm vợ A Sử, làm con dâu gạt nợ nhà thống Lí Pá Tra. Cô phải lao động quần quật, sống không khác gì con trâu, con ngựa. Khi mùa xuân đến, cô cũng muốn đi chơi liền bị A Sử trói đứng trong buồng. Chỉ đến khi A Sử bị đánh, cô mới được cởi trói để đi lấy lá thuốc, xoa dầu cho chồng. A Phủ là một chàng trai nghèo, mô côi, khỏe mạnh, gan góc, giỏi lao động. Vì đánh A Sử đến phá rối cuộc chơi nên bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, phải vay vốn thống lí để nộp phạt, rồi trở thành người ở đợ trừ nợ trong nhà thống lí. Một lần để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị trói đứng, bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm. Một đêm, khi trở dậy thổi lửa để sưởi, Mị bắt gặp dòng nước mắt chảy trên gò má đen sạm của A Phủ. Mị nghĩ về thân phận mình, đồng cảm về cảnh ngộ của A Phủ. Cô đã cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Hai người đến Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, tạo dựng một cuộc sống mới. A Phủ được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng A Châu trở thành tiểu đội trưởng du kích. Họ cùng mọi người cầm súng để gìn giữ bản làng.
3. Bố cục (3 phần)
– Phần 1 (từ đầu đến “bị đánh vỡ đầu”): Cuộc sống và diễn biến tâm trạng của Mị khi ở nhà thống lí Pá Tra
– Phần 2 (tiếp đó đến “đánh nhau ở Hồng Ngài”): Hoàn cảnh của A Phủ và cuộc xử kiện ở nhà thống lí Pá Tra
– Phần 3 (còn lại): Mị cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài
4. Giá trị nội dung
– “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vừng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do
– Truyện cũng nói lên ước mơ về một cuộc sống tự do, hạnh phúc của người dân
5. Giá trị nghệ thuật
– Ngôn ngữ giản dị, sinh động, hấp dẫn
– Xây dựng nhân vật đặc sắc, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, tài tình
– Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất thơ.