/tmp/tvzee.jpg
1. Phong trào Đông du (1905 – 1909).
*Nguyên nhân của phong trào:
– Nhật Bản là nước duy nhất ở châu Á nhờ đi theo con đường Tư bản chủ nghĩa mà thoát khỏi ách thống trị của tư bản Âu – Mĩ, lại có cùng màu da, cùng nền văn hóa Hán học với Việt Nam.
– Muốn nương nhờ Nhật là tâm lí phổ biến của nhân dân các nước châu Á cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, trong đó có Việt Nam.
*Những nét chính về hoạt động của phong trào Đông Du:
*Ý nghĩa của phong trào Đông du:
– Cách mạng Việt Nam đã bắt đầu hướng ra thế giới, gắn vấn đề dân tộc với vấn đề thời đại.
2. Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907)
– Tháng 3 – 1907, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền lập trường học lấy tên là Đông Kinh nghĩa thục, trường dạy các môn khoa học; tổ chức các buổi diễn thuyết, xuất bản sách báo tuyên truyền tinh thần yêu nước…
– Phạm vi hoạt động khá rộng: Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình… Tuy nhiên, đến tháng 11 – 1907, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa trường.
– Thông qua các hoạt động, Đông Kinh nghĩa thục góp phần thức tỉnh lòng yêu nước, truyền bá tư tưởng dân chủ, dân quyền và một nền văn hóa mới ở nước ta.
3. Cuộc vận động Duy tân và phong trào chống thuế ở Trung Kì.
a. Cuộc vận động Duy tân:
– Diễn ra mạnh nhất ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định… Người khởi xướng là Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…
– Nội dung của phong trào: mở trường dạy học theo lối mới, hô hào chấn hưng thực nghiệp, phổ biến và vận động làm theo cái mới, cái tiến bộ.
b. Phong trào chống thuế ở Trung Kì:
– Khi cuộc vận động Duy tân lan tới vùng nông thôn, đúng vào lúc nhân dân Trung Kì đang điêu đứng vì chính sách áp bức bóc lột của đế quốc và phong kiến, đã làm bùng lên phong trào chống thuế sôi nổi. – Phong trào đã bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu.
* Nhận xét: Tính chất, hình thức của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ XX: phong trào yêu nước mang màu sắc dân chủ tư sản, hình thức bạo động và cải cách.
1. Chính sách của thực dân Pháp ở Đông Dương trong thời chiến
– Đẩy mạnh vơ vét sức người, sức của ở Đông Dương để phục vụ cho chiến tranh đế quốc.
– Tăng cường bắt nông dân đi lính và thu hẹp diện tích trồng lúa chuyển sang trồng các câu công nghiệp phục vụ chiến tranh: thầu dầu, lạc, đậu, đặc biệt là cao su.
=> Đời sống nông dân càng khốn khổ, sản xuất nông thôn giảm sút.
– Khai thác hàng vạn tấn kim loại quý hiếm ở Việt Nam.
– Bắt nhân dân mua công trái để chi phí cho chiến tranh.
2. Vụ mưu khởi nghĩa ở Huế (1916). Khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên (1917)
a. Vụ mưu khởi nghĩa ở Huế
– Do Thái Phiên, Trần Cao Vân cầm đầu, có mời vua Duy Tân tham gia. Chỗ dựa chủ yếu là binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp. Kế hoạch khởi nghĩa bị bại lộ. Thái Phiên, Trần Cao Vân bị xử tử, vua Duy Tân bị bắt đi đày.
b. Khởi nghĩa của binh lính ở Thái Nguyên
– Binh lính Việt Nam bị bạc đãi, căm phẫn vì phải làm bia đỡ đạn… Họ phối hợp với tù chính trị ở Thái Nguyên, do Lương Ngọc Quyến, Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn) lãnh đạo, đứng lên khởi nghĩa vào đêm 30 rạng sáng 31 – 8 – 1917.
– Nghĩa quân chiếm được tỉnh lị, tuyên bố “Thái Nguyên độc lập”, nhưng sau 5 tháng chiến đấu, khởi nghĩa đã bị dập tắt. Để lại nhiều bài học kinh nghiệm về khởi nghĩa vũ trang như công tác lãnh đạo, chuẩn bị, thời cơ…
3. Hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi ra đi tìm đường cứu nước.
a. Hoàn cảnh:
– Sau năm 1908, phong trào giải phóng dân tộc rơi vào tình trạng bế tắc. các phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân, chống thuế… đều bị thất bại. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc.
– Tuy khâm phục các bậc tiền bối, nhưng Người không đi theo con đường cứu nước của họ mà quyết định ra đi tìm con đường cứu nước mới vì: Người đã nhận ra được những hạn chế của họ. Nguyễn Tất Thành đã từng nhận xét về họ, (Phan Bội Châu sang nhờ Nhật chẳng khác nào “Đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau”; Phan Châu Trinh thì cải lương, không tưởng khi “Xin giặc rủ lòng thương”; Hoàng Hoa Thám thì nghĩa khí, bất khuất đấy, nhưng “Nặng cốt cách phong kiến”).
b. Những hoạt động:
– Ngày 5 – 6 – 1911, từ bến cảng Nhà Rồng, Người ra đi tìm đường cứu nước. Người quyết định sang phương Tây để tìm hiểu những bí mật ẩn náu đằng sau những từ: “tự do, bình đẳng, bác ái”, …
– Sau hành trình kéo dài 6 năm, qua nhiều nước ở châu Phi, châu Mĩ, châu Âu, … đến năm 1917, Người từ Anh trở về Pháp, tham gia hoạt động trong Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pa-ri.
– Người tích cực tham gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga. Từ khảo sát thực tiễn, Người đã đúc kết thành kinh nghiệm rồi quyết định đi theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
*Kết luận:
Nguyễn Tất Thành là vị cứu tinh của dân tộc Việt Nam. Bước đầu hoạt động của Người đã mở ra chân trời mới cho cách mạng nước ta, là điều kiện quan trọng để người xác định con đường cứu nước đúng cho dân tộc Việt Nam.
Xem tiếp: Lý thuyết sử 8 Bài 31. Ôn tập: Lịch sử Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1918