/tmp/thtik.jpg
Nội dung bài viết
Bài văn Cảm nhận về đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều gồm dàn ý chi tiết, 4 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 9.
Đề bài: Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.
1. Mở Bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”
2. Thân Bài
– Đoạn trích khắc họa sống động hình tượng nhân vật phản diện Mã Giám Sinh – một tên buôn người bịp bợm, xảo quyệt
+ Qua lời nói: Đối lập với danh xưng “viễn khách”, hắn ta lộ rõ sự gian dối khi ngay lập tức sơ hở rằng quê ở lâm thanh
+ Hình thức: Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao lộ rõ vẻ khoa trương kệch cỡm của một kẻ buôn người
+ Hành động, cử chỉ: Ngồi tót sỗ sàng cho thấy đây là một kẻ vô học, vô văn hóa. Hắn xem Kiều như một món hàng có thể cân đo đong đếm. Hắn “mua” nàng với giá chỉ ngoài bốn trăm.
– Tố cáo thế lực buôn thịt bán người, thế lực đồng tiền và một xã hội mục ruỗng thối nát.
– Không chỉ khắc họa hình tượng Mã Giám Sinh, tác giả còn cho thấy nỗi tủi nhục và cam chịu của Thúy Kiều khi bị đưa ra mua bán:
+ Nàng vừa tức nỗi nhà vừa thương thay cho chính số phận nghiệt ngã của mình
+ Kiều tự xem mình là cánh hoa trước gió, dù còn “dạn gió, e sương” vẫn phải “vén tóc, bắt tay”
+ Nàng dự cảm thấy tương lai mù mịt sắp tới của chính mình
– Tình cảm, sự thương xót của Nguyễn Du đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
3. Kết Bài
– Giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là đoạn mở đầu trong đoạn đời 15 năm trời lưu lạc đau khổ của nàng Kiều. Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 619 đến câu 652 trong Truyện Kiều.Đoạn thơ làm sống lại một cảnh mua bán người thời trung cổ, thể hiện bút pháp nghệ thuật tự sự và tả người của thi hào Nguyễn Du. Nét đặc sắc nhất là nghệ thuật miêu tả và khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh.Trước cảnh gia biến, Kiều là đứa con chí hiếu quyết bán mình chuộc cha thoát khỏi vòng tù tội:
Hạt mưu sá nghĩ phận hèn.
Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.
Khách đến mua Kiều là “người viễn khách” được mụ mối đưa vào để “ vấn danh”, để ăn hỏi và xin cưới! Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Phải chăng “viễn khách” đi tìm người đẹp để “cầu hôn?”.
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
Khách tự giới thiệu mình là “kẻ sĩ” – sinh viên trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc; sau đó giới thiệu quê hương bản quán: “huyện Lâm Thanh cũng gần”. Hai chữ “rằng” nối tiếp nhau xuất hiệu biểu lộ một thái độ kiêu kì coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp của ” viễn khách” vừa hợm hĩnh vừa thô lậu, khiếm nhã:
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Đọc “Truyện Kiều” ta mới thấu tỏ nguồn gốc “viễn khách”. Y với mụ Tú Bà là những kẻ “Làng chơi đã trở về già hết duyên”. Sống ở Lâm Tri “Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề”. Sinh viên trường Quốc Tử Giám, “huyện Lâm Thanh cũng gần” mà Mã Giám Sinh tự giới thiệu chỉ là một sự khoe mẽ, bịp bợm. Viễn khách chỉ là một kẻ buôn thịt bán người “Quen mối lại kiếm ăn miền nguyệt hoa”.
Đây là bức chân dung truyền thần tên lái buôn họ Mã:
Quá niên trạc ngoại tứ tụần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Nhân cách y hé lộ dần. Cái “nhẵn nhụi” của mày râu gợi lên một ấn tượng dung tục, tầm thường; cái “ bảnh bao” của áo quần biểu lộ một tính cách giả dối.“Mày râu nhẵn nhụi” và “ áo quần bảnh bao” là hai hình ảnh, hai nét vẽ châm biếm Mã Giám Sinh “vẫn là một đứa phong tình đã quen”.Lần đầu Kim Trọng gặp Thúy Kiều, người đẹp có bao giờ quên được hình ảnh văn nhã:
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con.
” Vài thằng con con” là những chú tiểu đồng đáng yêu. Mã Giám Sinh cũng thầy – tớ”, cũng có “trước – sau” ra vẻ sang trọng, lên bộ quan dạng, mỗi bước đi là có kẻ đón người đưa, có kẻ hầu người hạ. Nhưng giữa thầy và tớ của ông khách viễn phương này sao mà “lao xao” ồn ào, lộn xộn, không chút lễ giáo, thiếu nền nếp, đáng khinh:
Trước thầy sau tớ lao xao
Mới được mụ mối “rước vào lầu trang”, cách ứng xử, cách đứng ngồi của Mã Giám Sinh càng bộc lộ tư cách của kẻ hạ lưu lại còn hợm hĩnh lên mặt:
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.
Cái lối “ngồi tót” là cách ngồi của bọn con buôn, của “phường buôn thịt”, của “quân buôn người”. Cái cử chỉ “sỗ sàng” là cử chỉ của những kẻ thiếu nhân cách vừa thiếu lễ độ, lịch sự vừa thiếu tự trọng. Hắn coi thường phẩm giá con người. Kẻ chỉ biết “kiếm ăn miền nguyệt hoa” mới có lối “ngồi tót” và cử chi “sỗ sàng” ấy!Mã Giám Sinh là một kẻ buôn thịt bán người lọc lõi “quanh năm buôn bán phấn hương đã lề”. Khi mụ mối “vén tóc, bắt tay” món hàng thì hắn “cân sắc” rồi “cân tài”, hắn “ép”, hắn “ thử’, hắn bắt Kiều đánh đàn, làm thơ một cách “đắn đo” suy tính kĩ càng. Người “quốc sắc thiên hương” đối với hắn chỉ là một món hàng
Đắn đo cân sức cân tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
Và chỉ sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưu”, Mã Giám Sinh mới “tùy cơ dặt dìu” mua bán. Tuy nói là “mua ngọc”, tuy lên giọng cao sang là “sính nghi’, nhưng vẫn “cò kè” lúc thì “bớt một”, lúc thì “thêm hai”. Thời gian mặc cả người đẹp đã kéo dài mãi đến “giờ lâu” mới “ngã giá”:
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã thể hiện cái tâm và cái tài của Nguyễn Du. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, nhà thơ đã tố cáo, lên án và khinh bỉ “phường bán thịt, quân buôn người” trong xã hội thối nát. Tài sắc của người phụ nữ trở thành một món hàng, nhân phẩm họ bị chà đạp xuống vũng bùn nhơ! Câu thơ “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong!” là một lời kết án đanh thép những kẻ bất lương làm giàu trên thân xác người phụ nữ.
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật hiện thực, lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất về trang phục, dáng vẻ, cử chỉ, ngôn ngữ, cách mua bán… để khắc họa tính cách nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn là một kẻ phong tình, giả dối, bủn xỉn, thuộc “ Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân” như Tú Bà đã hạ nhục hắn.Chữ nghĩa dưới ngòi bút thi hào có một ma lực ghê gớm, tạo nên những nét vẽ sắc sảo như: nhẵn nhụi, bảnh bao, lao xao, ngồi tót, sỗ sàng, dặt dìu, cò kè. Hình ảnh nhân vật Mã Giám Sinh trong “Truyện Kiều” đã trở thành một điển hình cho bọn “buôn phấn bán hương” trong xã hội, góp phần tô đậm giá trị hiện thực của áng thơ kiệt tác này.
Nàng Kiều trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được biết đến là một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại chịu kiếp hồng nhan bạc phận, chịu kiếp truân chuyên chìm nổi suốt mười lăm năm. Vốn sinh ra trong một gia đình trung lưu nhưng vì biến cố bất ngờ Thúy Kiều đã quyết định bán mình cứu cha. Và quyết định này cũng đã tạo ra bước ngoặt lớn cho hành trình mười lăm năm lưu lạc của Kiều. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều kể về việc bán mình cho Mã Giám Sinh cùng tâm trạng đầy đau đớn của nàng.
Mã Giám Sinh mua Kiều nằm trong phần thứ hai của Truyện Kiều: Gia biến và lưu lạc. Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn trích này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn dan
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng huyện Lâm Thanh cũng gần”
Trước sự dẫn dắt của mụ mối, Mã Giám Sinh đã đến nhà Kiều và bắt đầu cuộc mua bán. Theo sự giới thiệu của bà mối, Mã Giám Sinh là một người khách ở xa đến “viễn khách”, thế nhưng trong lời giới thiệu của mình, hắn ta đã để lộ ra những mâu thuẫn, sơ hở. Hắn ta giới thiệu mình ở Huyện Lâm Thanh, cũng gần. Như vậy ngay trong lời nói ta đã thấy hắn là một con người có chút gian sảo. Ngay tên tuổi cũng được hắn ta đánh bóng với “mác” là thư sinh của trường Quốc Tử Giám, nghĩa là hắn là người có ăn có học.
“Quá niên trạc tuổi tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng dẫn lối đưa vào vấn danh”
Thế nhưng trong sự miêu tả của Nguyễn Du, ta lại có cảm nhận hoàn toàn khác biệt về nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn ta nhận mình là thư sinh trường Quốc Tử Giám nhưng ngoại hình “quá niên trạc tuổi tứ tuần” của mình đã tạo ra sự mâu thuẫn trong lời nói. Hình dáng chải chuốt dị hợm, kệch cỡm không hợp tuổi cũng đã phần nào bóc trần được bộ mặt giả dối của hắn “Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Đoàn tôi tớ đi theo hầu cũng lộn xộn, huyên náo như những người đi thuê “trước thầy sau tớ lao xao”, nếu thực sự Mã Giám Sinh là một người có gia giáo, và những người đầy tớ kia là thực thì sẽ không có cảnh “lao xao”, vô phép tắc như vậy
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”
Mọi lời giới thiệu bóng bẩy về gia thế, học vấn của mình đều bị phá vỡ trước những hành động kệch cỡm, vô học của Mã Giám Sinh khi vào nhà của Kiều. “Ghế trên” là ghế dành cho những người bề trên, bậc phụ mẫu, nhưng với tư cách của một người đi hỏi vợ, Mã Giám Sinh đã không biết hoặc hắn ta không quan tâm mà lựa chọn cho mình chỗ thích hợp nhất cho cuộc mua bán. Chính hành động ấy đã bóc trần bản chất vô lại của một tên buôn người. Trái ngược với sự hỗn hào, vô học của Mã Giám Sinh, Thúy Kiều mang tâm trạng đau đớn, bất an, mỗi bước đi lệ rơi mấy hàng “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”.
“Ngại ngùng rợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”
Trước cuộc sống đầy bất an phía trước, Thúy Kiều mang tâm trạng lo lắng, sợ hãi, đây cũng là nét tâm lí thông thường của con người khi đứng trước những biến cố. Trong khi mụ mối cố gắng chào mồi bằng những lời ngon ngọt thì Thúy Kiều trong vị thế của người bị bán thì u buồn “buồn như cúc, điệu gầy như mai”.
“Tiếng đàn xưa đứt ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người”.
(Kính gửi cụ Nguyễn Du” – Tố Hữu)
Ra đời hơn hai trăm năm nhưng cho đến bây giờ và muôn đời sau, “Truyện Kiều” vẫn là “món ăn tinh thần” không thể thiếu được đối với con người Việt Nam, vẫn là một tác phẩm bất hủ, vẫn làm “say lòng người”, gắn bó với cuộc sống của mọi thế hệ. Một trong những yếu tố làm cho tác phẩm ấy đi sâu vào lòng người là bởi tiếng nói khẳng định yêu thương và bênh vực giá trị của con người thông qua việc tố cáo xã hội phong kiến mục nát đương thời đầy rẫy những kẻ “bán thịt buôn người” và nhất là thế lực đồng tiền đã ngự trị tất cả. “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn tiêu biểu.Đoạn trích không chỉ khiến chúng ta xốn xang rơi lệ cho tâm trạng của Kiều trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu “trâm gãy bình tan” mà còn khiến cho ta căm giận trước hình ảnh một kẻ bất nhân trơ tráo như Mã Giám Sinh.Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra khảo, tài sản gia đình bị bọn sai nha “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: “Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân”. Đây là một trong những đoạn thơ thành công về nghệ thuật tả người của thiên tài Nguyễn Du – đặc biệt là nhân vật phản diện, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.Trước hết tác giả giới thiệu y là “viễn khách” đến làm lễ “vấn danh” – khách phương xa đến hỏi vợ và xin cưới:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”
Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu thơ tiếp theo là lời hỏi – đáp:
“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Cách trả lời của hắn thật cộc lốc, khiếm nhã. Kỳ thực Mã Giám Sinh vốn chung lưng với Tú Bà mở lầu xanh:
“Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề”
Hắn ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở “Lâm Thanh”. Ở trên hắn nói với mụ mối là “viễn khách”, bây giờ lại nói là “cũng gần”. Đích thực là người ăn nói gian ngoa. Hắn chỉ là tên buôn thịt người nhưng lại khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử giám, họ Mã. Lai lịch của y thật mập mờ. Nhân cách hé lộ dần…
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra”
Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ lố bịch: “nhẵn nhụi” và “bảnh bao” là hai nét vẽ châm biếm. Cũng “thầy” cũng “tớ”, cũng “trước” cũng “sau”, có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của tên “khách viễn phương” này sao mà “lao xao” chẳng có nền nếp, lễ giáo gì !Đặc biệt là cái cử chỉ ngồi “sỗ sàng” đường đột ở “ghế trên” thể hiện hắn là người không biết giữ ý tứ, không biết lễ phép. Nếu là sinh viên trường Quốc Tử giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh. Chữ “tót” ở đây mang sắc thái khinh bỉ. Nói như nhà phê bình Hoài Thanh “chỉ một từ “lẻn” cho Sở Khanh, chữ “tót” cho Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã thâu tóm toàn bộ bản chất của nhân vật”. Ở đây tác giả không dùng những từ ngữ trang nhã, hình ảnh ước lệ mà sử dụng từ ngữ bình dân mang tính chất tả thực và có ẩn chứa cả thái độ mỉa mai, châm biếm, khinh bỉ của tác giả. Cách miêu tả ở đây khác hẳn với cách khắc họa nhân vật chính diện. Chẳng hạn một Thúy Vân:
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”
hoặc một Thúy Kiều:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Rõ ràng nghệ thuật tả nhân vật thật linh hoạt. Nhưng có lẽ chân tướng của y qua cuộc mua bán mới được bóc trần:
“Đắn đo cân sắc, cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”
Những từ “cân”, “ép”, “thử” thường được dùng khi kiểm nghiệm hàng hóa. Vậy đích thực đây là cuộc mua bán được trá hình và qua những thao tác của y, ta phần nào hiểu được hắn là một tên buôn người khá lọc lõi. Những chữ ấy tưởng giản đơn, lạnh nhạt tưởng chừng như tác giả đang đứng ngoài cuộc làm nhiệm vụ quan sát nhưng kì thực nó đã chứa đựng biết bao tình cảm xốn xang, nhức nhối của một trái tim nhân đạo.Lời nói văn hoa của y cũng không che đậy được bản chất giả nhân giả nghĩa, tính cách thực dụng:
“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”
Để rồi cuối cùng, tác giả đã lột trần chân tướng của hắn
“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”
Chỉ hai từ “cò kè” và “ngã giá” đủ làm cho gã họ Mã hiện nguyên hình là một kẻ buôn người ghê tởm. Và cũng nhờ đó, ta còn hiểu thêm được tính cách bủn xỉn của y. Tác giả đã khép lại cảnh tượng mua bán ấy bằng những từ xoay quanh việc hỏi cưới: “nạp thái”, “vu quy”, “canh thiếp”… nhưng cũng không quên hạ một câu mỉa mai, chua xót:
“Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”
Đồng tiền – bạo lực đã khiến cho bọn quan lại áp bức dân lành, đồng tiền đã làm cho tử biệt sinh ly, thay đổi trắng đen, khuynh đảo cả một xã hội, đồng tiền đã đạp lên cuộc sống và nhân phẩm của một con người. Nàng Kiều tài hoa xinh đẹp đã trở thành hàng hóa điêu linh trước đồng tiền của tên Giám Sinh họ Mã.
Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách xấu xa, đồi bại của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nào cũng rất sống, đằng sau nét vẽ là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người “bạc ác tinh ma” này ! Bức chân dung phản diện của Mã có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án bọn buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.Tóm lại: “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong “Truyện Kiều”. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc sảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội cùng với thế lực ngự trị của đồng tiền trong xã hội bấy giờ. Đó cũng chính là thành công về giá trị tố cáo hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Ý nghĩa to lớn của Truyện Kiều là tố cáo xã hội thối nát chà đạp lên quyền sống của con người. Cảnh mua bán người thật thương tâm trong truyện. “Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn trích minh chứng cho điều trên. Ở đoạn trích, nhà thơ đã tố cáo thế lực đồng tiền tàn bạo, phơi bày tình trạng con người bị biến thành hàng hóa; bày tỏ niềm đau đớn, căm phẫn trước tình cảnh con người bị hạ thấp và chà đạp.
Trong dịp thanh minh vào tiết tháng ba, Kiều cùng hai em đi du xuân tảo mộ. Trên đường về gặp một nấm mồ hoang, Vương Quan thuật lại tiểu sử của người đàn bà nằm dưới mồ. Đó là Đạm Tiên – xưa là ca nhi sống làm vợ khắp người ta nhưng nay thì không ai đoái thương thắp cho nàng một nén hương. Với bản chất đa cảm, Kiều đã xót xa, thương cảm với số phận của Đạm Tiên, và cũng từ đó Đạm Tiên như là một người bạn tri kỉ vô hình để báo cho nàng về số kiếp đoạn trường sẽ diễn ra và kết thúc như thế nào. Nhưng tiếp đó Thúy Kiều gặp Kim Trọng là bạn đồng môn của Vương Quan. Mới chỉ qua giao tiếp buổi đầu nhưng tình cảm nảy nở như tiếng sét ái tình tình trong như đã mặt ngoài còn e. Ra về, mỗi người đều nảy sinh mối tình vương vấn, luyến lưu. Kim Trọng nặng lòng tương tư nên đã tìm nơi trọ ngay mé sau nhà Kiều. Nhờ đó hai người gặp gỡ rồi thề non hẹn ước.
Hai người gặp gỡ hò hẹn được một thời gian không lâu thì Kim Trọng phải về quê thọ tang chú ba năm, và gia đình Thúy Kiều thì rơi vào cảnh bị bọn bán tơ vu oan, nên nhà cửa tan tác, Vương Ông và Vương Quan bị bắt, đánh đập. Lúc này trong nhà chỉ có Thúy Kiều là món hàng đắt giá nhất để bán lấy số bạc chuộc cha và em ra khỏi nơi giam cầm. Nàng quyết định bán mình, làm xa gần nôn nao nhưng lại không dễ dàng thực hiện vì bạn bè thân quen của gia đình không ai dám mua và không nỡ mua. Trong lúc đang cần cứu cha và em, chậm một ngày là thêm một ngày đau khổ, thời cơ đã đến với kẻ buôn người – Mã Giám Sinh.Khi miêu tả cảnh Kiều gặp Kim Trọng và Kiều gặp Từ Hải, Nguyễn Du có hẳn những câu thơ giới thiệu chân dung nhân vật. Còn đối với Mã cũng là kẻ đến cưới nàng, nhưng hắn chỉ như một công cụ của số mệnh, của cái thế lực đen tối đến gieo tai họa. Tên lái buôn này chắc đang lùng sục khắp chợ cùng quê để mua người đẹp cho mẹ chủ chứa lầu xanh Tú Bà mà hắn cũng góp phần chung lưng.Ta thấy nhà thơ diễn tả hàng loạt lời nói động tác và thái độ vừa của mụ mối và của hắn với những câu dấm dẳn nghe trào tiếu đến mức phải bật cười:
“Hỏi tên – rằng Mã Giám Sinh;
Hỏi quê – rằng – huyện Lâm Thanh cũng gần”
Cuối cùng thì nhà thơ cũng để cho hắn xuất hiện thực sự với những nét ngoại hình khá điển hình. Về ngoại hình, Mã Giám Sinh ăn mặt một cách trau chuốt, nhố nhăng: “Quá niên …bảnh bao” / “Trạc ngoại tứ tuần” là người đã lớn tuổi, không còn trẻ tuổi. Tuổi ấy lẽ ra phải để râu nhưng đây lại chẳng có dáng mày râu. Người xưa rất coi trọng hình thức mày râu. Hai chữ “bảnh bao” là chỉ áo quần tử tế, chải chuốt, phẳng phiu. Có người nói “bảnh bao” là từ dùng để chỉ quần áo trẻ em, nay dùng để khen người lớn do đó nó mang hàm ý mỉa mai. Vậy là ngay cả tư cách đàn ông, trượng phu của Mã Giám Sinh cũng bị phủ định. Tuy nhiên, câu thơ cũng có thể hiểu một cách khác: mày râu nhẵn nhụi là được cắt xén tỉa tót, trai lơ, đi đôi với bộ cách bảnh bao ra dáng một chú rể. Ở đây ta muốn đến với cái tài tình của nhà thơ là nói thật lại hóa giả, nói trắng lại hóa đen. Bởi vậy nghe những từ ấy ta không có hàm ý trang trọng, phản ánh đúng cái bản chất bên trong của hắn.
Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: Nguyễn Du có cái tài lột tả cái thần của nhân vật chỉ bằng một từ, từ tót trong ngồi tót của họ Mã, cũng như từ lẻn tả Sở Khanh, từ ngây tả Hồ Tôn Hiến đã trở thành những nhãn từ trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Ngoại hình, cử chỉ, hành động của Mã Giám Sinh, ngày tư khi chưa bước vào cuộc mua bán đã được miêu tả rất khách quan nhưng rất chính xác, đó là một kẻ vô giáo dục, một kẻ không đáng tin cậy, không lương thiện.Phần tả cảnh mua người thật hiếm có, có kẻ mua người bán. Nhà thơ đã cực tả nỗi xót xa của Kiều khi đem ra làm món hàng “Nỗi mình …mặt dày” / “ Nỗi mình” là mối tình đối với Kim Trọng đành tan vỡ. “nỗi nhà” là việc cha, việc em bị hành hạ không thể không cứu. Hai nỗi đau chồng chéo đé nặng trong lòng. Cho nên mỗi bước đi của nàng làm rơi bao nhiêu hàng lệ: khóc cho mình, khóc cho tình, khóc cho cha và em. Ngoài nỗi đau và uất ức, Kiều còn có nỗi đau xót thẹn thùng. Một người con gái khuê các, nay ra chào khách, sao khỏi sượng sùng xấu hổ. Nhà thơ dùng hình ảnh bông hoa với biện pháp ẩn dụ thật tái tình. Kiều đi ra với Mã Giám Sinh ví như cành hoa sắp gặp bão tố. Cho nên “ngại ngùng..” vì sương gió làm cho hoa tàn hoa rụng. Vì tự ví mình là hoa nên Kiều nhìn hoa mà thấy thẹn, tự thấy mình không xứng với hoa. Đó là tình cảm là đạo đức cao đẹp, thầm kín của Kiều mà chỉ mình Kiều cảm thấy.
Khi phải rơi vào tình cảnh bi đát của cuộc đời, Kiều đang tiều tụy đến cùng cực thì bà mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng một đồ vật. Mụ vén tóc bắt tay cho khách xem; ép nàng làm thơ đánh đàn cho khách thấy mà không hề biết gì đến nỗi đau bên trong đang giày vò nàng: “Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” / Quả đúng là cảnh “cành hoa đem bán cho phường lái buôn” hết sức đau xót. Khách xem xong hàng thì ngã giá “cò kè…bốn trăm” / Giá mua bốn trăm là một con số không lớn mà người mua còn cò kè thêm bớt mất nhiều thời giờ. Từ đó người đọc cảm nhận được sự mua bán róng riết, chi li biết chừng nào! Câu thơ “cò kè…hai” bộc lộ rõ nhất bản chất con buôn của Mã Giám Sinh chứ không phải là người đi kiếm vợ lẽ, nàng hầu. Tính toán của hắn hoàn toàn đặt ở tiền, chứ không đặt ở người.Nguyễn Du đã tiếp tục khắc họa nhân vật họ Mã, bằng bút pháp tả thực còn sinh động hơn nữa qua cử chỉ, hành động buôn người của hắn:
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”
Như vậy, dưới con mắt của hắn Thúy Kiều là một món hàng phải ép cái này thử cái kia, phải nhấc lên, đặt xuống xoay sở đủ cách như cân, đong, đo, đếm như hàng hóa vậy. Cuối cùng cái đích của sự mua bán là giá cả, hắn phải hỏi dù với cái giọng ngọt xớt giả nhân, giả nghĩa, nhưng kệch cỡm, vụng về:
“Hắn khai: Rằng mua ngọc đến Lam Kiều.
Hắn hỏi: Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.”
Sau khi mụ mối định giá, hắn cò kè bớt một thêm hai từ một ngàn lạng, hắn chỉ ngã giá có ngoài bốn trăm. Vì hoàn cảnh đã đến bước đường cùng, Kiều buộc phải bán mình với giá ngoài 400 lượng vàng. Thế là cuộc mua bán bẩn thỉu được ngụy trang là lễ vấn danh và hàng loạt từ mĩ miều như cánh thiếp, nạp thái, vu quy đều là sự bôi đen lên tấm thân nghiêng nước, nghiêng thành.Kết thúc tấn bi hài kịch này, Nguyễn Du hạ hai câu thơ như chẳng ăn nhập gì với nhau và có lẽ khách quan nhưng thực ra là đáng sợ như hàm răng của con cá sấu, là cái nanh vuốt của xã hội bắt đầu thò ra lấy con mồi của nó:
“Định ngày nạp thái vu quy
Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong…”
Nghĩa là đến đây số phận nàng Kiều đã được định đoạt bước sang một chặng đường đầy chông gai, gian khổ, lưu ly… Nàng đã rứt ra khỏi vòng tay êm ái của gia đình để vấp vào những hang ổ miệng hùm, nọc rắn. Ai có thể lường trước thân phận tài sắc của người con gái họ Vương. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
“Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn phương lẳng lặng, hai kinh vững vàng”
Ta có cảm nghĩ đó là cái xã hội êm ấm, thế là giữa thanh thiên bạch nhật gia đình họ Vương mắc oan, gỡ cái oan nghiệt này bằng cách bán đứa con đầu lòng tài hoa. Đang là cô gái lá ngọc cành vàng, tiết sạch giá trong, bước chân vừa mới chạm vào ngưỡng cửa hạnh phúc đã trở thành món hàng giữa chợ. Chua xót, bi phẫn cho người con gái chưa từng vào đời mà đã phải ra trước mắt người lạ để họ nhìn ngắm một cách sỗ sàng, thậm chí còn ép nọ thử kia để không chịu sự vô ý, hớ hênh mà mua đắt dù đó là người đẹp.Đoạn thơ đã miêu tả được hết toàn bộ câu chuyện mua bán người đang diễn ra, thể hiện sự bất công của xã hội đối với con người, đặc biệt là người phự nữ. Vẻ đẹp cũng như tài trí của nàng đều không được xã hội đón nhận, mà còn gây cho nàng những bất hạnh đến cùng cực. Đọc tác phẩm Truyện Kiều, không ai không thể tiếc thương cho số phận của nàng Kiều, và phê phán xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người.