Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa năm 2021


Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa năm 2021

Bài văn Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa gồm dàn ý chi tiết, 10 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 1

Nguyễn Minh Châu là một nhà văn lớn trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông được chia ra làm hai giai đoạn rõ rệt. Trước thập kỉ 1980, ông là ngòi bút sử thi có khuynh hướng trữ tình lãng mạn. Từ đầu thập kỉ 1980 cho đến khi mất, cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh đã trở thành mạch nguồn văn chương dồi dào trong ông.

Và “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là một tác phẩm văn học nổi tiếng thuộc giai đoạn thứ hai, là đại diện tiêu biểu cho hành trình sáng tạo nghệ thuật lấy với tâm điểm là con người trong công cuộc mưu sinh, trong quá trình nhọc nhằn đi tìm hạnh phúc.

“Chiếc thuyền ngoài xa” kể về tình huống của nghệ sĩ Phùng khi anh đi tìm kiếm ngoại cảnh để chụp những bức ảnh đẹp ở một bãi biển miền Trung. Ở đây anh đã phát hiện một cảnh “đắt” trời cho mà có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ thấy. Nhưng đằng sau bức ảnh thiên nhiên lãng mạn được phủ bởi lớp sương mù trắng có pha màu hồng là một sự thật nghiệt ngã về cuộc sống của một gia đình hàng chài.

Cảnh đói nghèo và bạo hành gia đình diễn ra ngay trước mắt. Hóa ra, cái đẹp của nghệ thuật không hề trùng khít với cái đẹp của cuộc sống. Trong buổi tòa ở huyện, nhiếp ảnh Phùng đã chứng kiến câu chuyện đầy cảm động của người đàn bà hàng chài hôm trước và cũng thông qua người đàn bà này, anh bắt đầu ngộ và vỡ lẽ ra nhiều điều trong cuộc sống.

Tác phẩm được mở ra bằng hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng. Phát hiện thứ nhất là về nghệ thuật, sau một tuần “phục kích” ở bãi biển, Phùng cũng đã tìm được cho mình một cảnh “đắt” trời cho. Bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và khoáng đãng hiện ra trước mắt, thu trọn cả tâm hồn anh “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”…

Phùng đã không ngại ngần gì nữa mà bấm “liên thanh” như muốn đem tất cả những vẻ đẹp kia đặt trọn vào ống kính của mình. Cái đẹp bên ngoài của sự vật đã làm cho người nghệ sĩ kia ngẩn ngơ tức thì. Phát hiện thứ hai là về cuộc đời, ẩn giấu đằng sau vẻ đẹp nghệ thuật là sự thật đầy nghịch lí, xót xa. Phía sau bức tranh thiên nhiên tươi đẹp là bức tranh hiện thực đầy khắc nghiệt, lem lấm những bước đường mưu sinh của con người.

Đó là người vợ xấu xí, thô kệch, mệt mỏi và cam chịu. Đó là người chồng bạo hành, xem việc trút xuống vợ mình những cơn giận dữ bằng chiếc thắt lưng quật tới tấp xuống lưng là niềm giải tỏa “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Ẩn đằng sau cái đẹp toàn bích lại là sự tàn nhẫn khôn cùng. Tất cả hiện thực cuộc sống phơi bày trước mắt Phùng vô cùng bất ngờ, trớ trêu, quái ác.

Nguyễn Minh Châu ngay từ đầu cũng đã khéo léo đan cài điều ấy vào nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” – cái tên dễ liên tưởng đến một cái tên khác: “ngoài xa” – “vào gần”. Ngoài xa, chiếc thuyền là một biểu tượng của cái đẹp, của sự toàn bích, của khát khao thu trọn từng khoảnh khắc lãng mạn, nên thơ ấy bằng sự xúc động của một nghệ sĩ nhiếp ảnh.

Vào gần, đó là bức tranh cuộc sống vô cùng khắc nghiệt, gai góc và phức tạp khôn cùng, nó đã được bao phủ bởi lớp sương hồng mờ ảo mà nếu không chịu khó vén mở, tất cả đều bị đánh lừa. Phùng kinh ngạc trước hoàn cảnh đó, ban đầu “cứ đứng há hộc mồm ra mà nhìn”, sau đó đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”.

Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng đã mang tới ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm, có ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống. Trước hết, đó mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời. Đánh giá sự vật nếu chỉ dừng lại ở vẻ đẹp, vẻ hấp dẫn bên ngoài tức là bỏ qua chiều kích, ý nghĩa của bề sâu, là thoát li thực tại. Ta thấy, tiếp cận hiện thực ở khoảng cách “ngoài xa” khó lòng thấm nhuần được những câu chuyện đằng sau bức tranh phong cảnh khi “vào gần”. Cũng cùng là một đối tượng, nhưng cách tiếp cận, thái độ tiếp cận khác nhau sẽ dẫn những muôn hình vạn trạng cuộc sống.

Câu chuyện người đàn bà ở tòa án huyện cũng là một nội dung quan trọng để mở ra những bài học sâu sắc cho người đọc. Số phận con người dần dần được thể hiện qua lời thoại của các nhân vật, từ đó mở ra chiều sâu triết lí cho tác phẩm. Qua lời kể của người đàn bà, Phùng dần có sự vỡ lẽ trong nhận thức, dần nhận ra sự đa chiều, phức tạp trong mỗi con người, mỗi hoàn cảnh.

Được tòa mời lên giải quyết việc gia đình, người đàn bà đã có mặt nơi tòa án, nơi làm việc của Đẩu – bạn thân của Phùng. Ban đầu, người đàn bà có vẻ lúng túng, đầy sợ sệt, xưng là “con” và gọi Đẩu là “quý tòa”. Sau đó, chị đột ngột đổi sang xưng “chị”, gọi Phùng và Đẩu là “các chú”. Sự xưng hô ấy có một ý nghĩa đặc biệt, từ một người đàn bà nhỏ bé, cam chịu đã trở thành một người thầy, một vị quan tòa chỉ dạy Phùng và Đẩu cách nhìn đời, nhìn cuộc sống.

Ta thấy, dù chịu cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, từ đầu đến cuối, người đàn bà vẫn không chấp nhận từ bỏ chồng, dù cho Phùng và Đẩu có tốn bao nhiêu lời khuyên răn. Cuộc đời của chị là trải dài của những bất hạnh, chị không chỉ sống cho riêng mình, mà còn vì chồng, vì con. Chị tự trách cảnh nghèo đói kia là do mình đẻ nhiều quá và cảm thông, thấu hiểu cho người chồng “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.

Chị hi sinh cả đời mình để sống cho con “đàn bà chúng tôi phải sống cho con chú không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Chị trân trọng, chắt chiu từng hạnh phúc nhỏ nhoi “vui nhất là nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Từ đó, ta thấy, hình ảnh người đàn bà không thể chỉ nhìn ngắm đơn giản bên ngoài, không phải chỉ là người phụ nữ cam chịu, là nạn nhân của bạo hành, là người sinh ra với những đau thương như số mệnh an bài mà còn là đại diện cho sự nhẫn nhục của người mẹ, người vợ; là đại diện cho tình thương và trách nhiệm với con, với chồng, với gia đình.

Bức ảnh của nhiếp ảnh Phùng chính là kết tinh của một quá trình thăm dò, khám phá hiện thực cuộc sống một cách đa dạng, nhiều chiều “tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi ảnh”. Vẫn là hình ảnh “tấm lưng bạc phếch có miếng vá”, hình ảnh người đàn bà trong bức ảnh của Phùng đã để lại những dư ba trong lòng người đọc mãi về sau.

Về nghệ thuật, trước nhất Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc xây dựng cốt truyện. Đó là cách tạo tình huống mang tính chất khám phá, phát hiện về đời sống, đặc biệt là thông qua hình ảnh người nghệ sĩ Phùng. Ban đầu, Phùng nhìn đời bằng con mắt của người nghệ sĩ. Sau đó, qua những biến cố, những sự kiện, nhận thức và cách nhìn nhận đã có sự biến chuyển, từ thơ mộng sang hiện thực, hiểu sâu hơn về người đàn bà, về chị em thằng Phác…

Bên cạnh đó, cách gọi tên phiếm định “người đàn bà hàng chài” như một cách gọi chung, nêu lên một số phận chung của những con người nhọc nhằn trong công cuộc mưu sinh. Cách miêu tả, xây dựng hệ thống ngôn ngữ phù hợp với những đặc điểm tính của nhân vật. Lão đàn ông hiện lên với dáng hình thô bỉ, tàn nhẫn qua ngôn ngữ hung bạo, tục tĩu. Người đàn bà thô kệch, xấu xí, bất hạnh kia được dựng lên bằng sự dịu dàng, yêu thương con và sự thấu hiểu lẽ đời…

Qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, chúng ta có thể hiểu vì sao Nguyễn Minh Châu được đánh giá là “thuộc trong số những nhà văn mở đường cho tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”. Thông qua các nhân vật trong truyện, nhà văn đã cho ta thấy hành trình khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự với việc đặt con người, cách nhìn con người lên làm trung tâm của sáng tạo văn chương, nghệ thuật.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 2

    Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là nhà văn quân đội. Ông là một trong những cây bút tiên phong của nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới (cuối thế kỉ XX).

    Những tập truyện ngắn: “Người đàn bà trên chuyến tốc hành”, “Bến quê”, “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Cỏ lau”,… đã thể hiện tài năng nghệ thuật đặc sắc, im đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu.

    Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả viết vào năm 1983, xuất bản năm 1987. Nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, chánh án Đẩu, người đàn bà thuyền chài mặt rỗ và thằng bé Phác là những nhân vật được tác giả khắc hoạ khá sắc sảo, để lại cho người đọc bao ấn tượng, bao ám ảnh về màu sắc lãng mạn của nghê thuật và sự thật trần trụi của đời thường.

    Nghệ sĩ Phùng đã “vác” máy ảnh trở lại vùng biến nơi chiến trường cũ của anh thời đánh Mĩ. Cảnh biển buổi sáng có sương mù mà anh “phục kích” mấy buổi sáng vẫn chưa tìm ra. Anh háo hức muốn thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh thì sáng nay anh đã gặp “hên” một cảnh “trời cho”, có lẽ suốt một đời cầm máy chưa bao giờ dám mơ tưởng đến. Đó là cảnh “thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”.

    Trong ánh mắt của người nghệ sĩ, Phùng cảm thấy trước mặt mình là “một bức tranh mực tầu của một danh hoạ thời cổ”. Bao mĩ cảm đã dâng lên dào dạt trong lòng, anh xúc động “bối rối”, và trái tim của anh “như có cái gì bóp thắt vào”. Đối diện với bức tranh “thật đẹp và toàn bích” ấy, nghệ sĩ Phùng cảm thấy vô cùng hạnh phúc, anh mới thấm thía “bản thân trong cái đẹp chính là đạo đức” như ai đó lần đầu đã phát hiện ra; trong giây phút bối rối đó, anh ” vừa khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Cái đẹp và nghệ thuật đã thanh lọc tâm hồn người, làm cho hồn người trở nên thấnh thiện.

    Và khi đã chạm tới gấu áo của vị thần nghệ thuật, Phùng đã bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca. Cái khoảnh khắc ấy đối với anh là vô cùng hạnh phúc, và anh đã “ngộ” ra – “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”.

    Có một điều mà bạn đọc cần lưu ý, đó là nơi nhà nhiếp ảnh ngồi bấm máy. Chẳng phải Lầu Hoàng Hạc, chẳng phải là một chốn Bồng Lai mà chí là một bãi biển còn đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải “rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa”. Chi tiết này rất quan trọng, nó cho thấy cảnh biển mù sương và con thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trọn vẹn. Vết thương chiến tranh còn in hằn trên bãi biển và trong lòng ngư dân. Chỉ vì Phùng, với tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ, anh mới thi vị hóa, thần tiên hoá hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, để rồi sau đó, anh sẽ bị hẫng.

    Một tình huống đầy bi kịch đã xảy ra. Một cảnh đời ngang trái, quá phũ phàng và vô cùng tàn nhẫn đã diễn ra khi chiếc thuyền “đâm thẳng” vào bờ, vào ngay trước chỗ nhà nhiếp ảnh đứng. Phùng không chỉ nhìn thấy, được chứng kiến mà còn được tham dự vào những chuyện trớ trêu, đau lòng.

    Còn đâu nữa cái màu trắng, màu hồng của bức tranh “toàn bích” khi một người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền lội qua một quãng bờ phá đi lên bãi cát. Một tiếng nói chõ như quát cất lên: “Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày bây giờ”. Người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi, cao lớn, thô kệch, rỗ mặt, mệt mỏi, tái ngắt… Người đàn ông đi sau “lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền; mái tóc tổ quạ, chân chữ bát, lông mày cháy nắng, rủ xuống”,… Lão đàn ông con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân ướt sũng của người đàn bà”.

    Những gì xảy ra đã xảy ra sau đó. Bãi cát, nơi xác chiếc xe rà phá mìn đã trở thành nơi hành tội. Khi người đàn bà “đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng” (có thể người mẹ nhìn mấy đứa con) thì một sự việc diễn ra vô cùng khủng khiếp! Lão đàn ông “trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay”, hắn lồng lên như một con thú dữ. Lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, cái vũ khí thường ngày của kẻ gần như mất hết cả nhân tính, “quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Hắn “vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”. Lão “trút cơn giận như lửa cháy” vào người đàn bà tội nghiệp, đáng thương. Lão nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Mày và chúng mày mà lão nói đến là vợ con của lão.

    Thật kì lạ là người đàn bà khổ nạn ấy không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn chạy mà “cam chịu đầy nhẫn nhục”. Hình ảnh đau lòng đó đã làm cho nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh “kinh ngạc”, “đứng há mồm ra mà nhìn” trong mấy phút. Khi Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới thì có một thằng bé con giận dữ “như một viên đạn lao tới đích đã nhắm” lao thẳng vào cái lão đàn ông. Đứa bé với một sức mạnh ghê gớm đã giằng được chiếc thắt lưng, vung chiếc khoá sắt quật vào giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen loần xoăn của lão đàn ông. Giằng không được cái dây thắt lưng da, lão ta dang thẳng cánh cho thằng bé hai tát khiến thằng bé ngã dúi xuống cát.

    Tiếng gọi: “Phác, con ơi!” của người mẹ tội nghiệp cất lên. Hình ảnh người đàn bà “ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi ôm chầm lấy… Và hình ảnh thằng nhỏ “lặng lẽ đưa ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ” lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt, tất cả đã làm cho nhà nhiếp ảnh Phùng, cho mỗi chúng ta tê tái bàng hoàng. Đứa con đến để cứu mẹ, để chặn bàn tay của con người thú.

    Phùng “ngơ ngác nhìn” ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên, Bức ảnh thế sự ấy diễn ra “như trong truyện cổ quái đản”, chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, tâm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi? Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí hoạ, đã được nhà nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hoá cuộc đời, bối hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt!

    Với Phùng có thể coi đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghê thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi, ờ rất gần ngay trước mắt. Qua đó, ta càng thấy rõ chân lí cuộc đời có lúc, có nơi không phải là chân lí nghệ thuật. Nguyên Minh Châu qua “Chiếc thuyền ngoài xa” đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghê thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính giàu bản lĩnh.

    Câu chuyên người đàn bà làng chài ở trụ sở toà án huyện đã lí giải cho Phùng và Đẩu, đã giúp chúng ta hiểu rõ sự thật trần trụi trước mọi bi kịch bạo hành trong gia đình, hiểu sâu hơn tấm lòng và tâm lí của người phụ nữ trong nỗi éo le cuộc đời.

    Người đàn bà mạt rỗ lúc đầu chỉ dám ngồi ở góc tường, khi được Đẩu mời, mụ mới “rón rén” đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại. Khi nghe vị Chánh án nói, mụ ngước lên nhìn rồi lại “cúi mặt xuống”. Có lẽ lần đầu đến cơ quan nhà nước, mụ mới sợ như vậy. Mụ chắp tay vái lia lịa Đẩu và xưng là : “Con lạy quý tòa…”. Mụ nhấp nhổm xoay mình như bị kiến đốt! Nghe mụ van xin mà xót xa: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Sống với một kẻ vũ phu, “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” thế mà mụ vẫn van xin quý tòa “đừng bắt con bỏ nó”. Chánh án Đẩu làm sao hiểu được nỗi éo le đó. Nhà nhiếp ảnh Phùng thì cảm thấy “ngột ngạt quá!”.

    Khi nghe vị chánh án gọi bằng bà, và nói rõ chủ trương của toà án là kêu gọi hoà thuận, chị ta “ngơ ngác” nhìn Đẩu, nhìn Phùng, chị ta thay đổi cách xưng hô, tự xưng là chị, gọi Đẩu và Phùng là chú rất khẩn thiết, rất chân thành.

    Mụ kể về thời con gái của mình, mụ tâm sự về chuyện lấy chồng của mình: mặt rỗ, xấu gái, không ai lấy, rồi có mang với anh con trai… “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.

    Mụ kể chuyện từ ngày cách mạng về đỡ khổ, chứ trước đày những lần động biển, vợ chồng con cái toàn ăn xương rồng luộc chấm muối suốt hàng tháng trời. Chị ta than thở gia cảnh nghèo, thuyền quá nhỏ… Đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá; đàn ông ở thuyền hoặc uống rượu hoặc đánh vợ, bất kể lúc nào, hễ thấy khổ quá là xách vợ ra đánh. Chị ta cho biết nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông, nhất là những khi biển động sóng gió để chèo chống. “Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở đất được…”. Chị cho biết chồng chị ngày trước cũng trốn đi lính nguỵ. Chị cũng có niềm vui là khi vợ chồng con cái “sống hoà thuận vui vẻ”, “vui nhất là ngồi nhìn đàn con được ăn no “,v.v…

    Sự nhẫn nhục, đức hi sinh của người đàn bà mặt rỗ thật bao la. Chị ta cam chịu khi bị chồng đánh. Chị ta chỉ xin chồng đừng đánh minh trước mặt đàn con. Chị ta sợ đứa con trai tên là Phác làm điều gì dại dột đối với bố nó nên phải gửi nó lên rừng ở với ông ngoại. Chị ta đã khóc khi nghe Phùng nhắc đến tên thằng Phác.

    Chỉ qua những lời giãi bày chân thật đó, ta mới có thể hiểu được nỗi khổ, sự cam chịu nhẫn nhục, đức hi sinh thầm lặng, tình thương con mênh mông của người đàn bà làng chài đáng thương; ta mới thấu hiểu được cái căn nguyên sâu xa của tộ nạn bạo lực trong các gia đình nghèo cực. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu, chỉ kí quyết định bắt người đàn bà mặt rỗ bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn chuyện đời một cách thấu suốt, rất nhân tinh, rất đời, thì ta sẽ thây cách nghĩ, cách sống, cách xử sự của người vợ, người mẹ ở trong truyện là không thể khác được.

    Biết được đáy vực nông, sâu là đã khó. Biết được lòng người xấu, tốt, biết được nỗi lòng, nỗi đời, cảnh ngộ của con người đâu dễ! Qua câu chuyên người đàn bà ở toà án huyện, ta càng thấy rõ: không thể đơn giản, dễ dãi khi nhìn người, nhìn đời, khi đánh giá hiện tượng trong xã hội, trong cuộc sống. Không thể hấp tấp vội vàng. Nếu thiên kiến, định kiến, duy ý chí là sai. Có lòng tốt, ý định tốt chưa đủ. Mà phải suy xét, cân nhắc vừa có tình vừa có lí, vừa được việc vừa được người.

    Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” có nhiều tình huống rất bất ngờ hấp dẫn. Mỗi một tình huống xuất hiện, tính kịch của câu chuyện lại được nâng cao, được khắc sâu. Nhà nhiếp ảnh Phùng lúc đầu phát hiện ra hình ảnh chiếc thuyền chài hiện ra trong sương mù và đã bấm máy “liên thanh” hết một phần tư cuộn phim và ngây ngất trước cái đẹp của ngoại cảnh là một tình huống thơ mộng. Chuyện người đàn ông chân chữ bát dùng dây thắt lưng lính ngụy đánh mụ vợ mặt rỗ và thằng Phác đánh lại bố hắn để bảo vệ người mẹ thương yêu là một tình huống bất ngờ diễn ra trước mắt Phùng làm cho tính bi kịch đầy nước mắt. Chuyện lão thuyền chài lại đánh vợ, đánh bị thương Phùng – kẻ dám đến can ngăn; chuyện chị gái cướp lấy con dao mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ tội nghiệp, đều là tình huống cực kì cay đắng, dữ dội. Câu chuyện của người đàn bà mặt rỗ kể ở cơ quan toà án huyện… là tình huống nói về sự éo le của cuộc đời, về thân phận tủi nhục đắng cay của người đàn bà nghèo, đông con ở làng chài.

    Qua các tình huống đó, nhà nghệ sĩ Phùng mới thấm thía rằng: nghệ thuật không thể lãng mạn hoá, thi vị hoá cuộc đời khi cuộc đời còn đầy ngang trái. Chánh án Đẩu mới thấu hiểu toà án không chỉ để thực thi công lí, pháp luật mà con phải soi sáng lòng dân, tình dân. Và mỗi chúng ta mới hiểu: cuộc sống đã và đang diễn ra là vô cùng phức tạp, không thể đơn giản hoặc chỉ nhìn một chiều, một phía, một cạnh.

    Tính tình huống đã làm cho truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” vừa chân thực, vừa mang giá trị nhân bản sâu sắc. Phải chăng cuộc đời lam lũ nghèo khổ, nheo nhóc, sự tối tăm ngu dốt… là một trong những nguyên nhân gây ra nạn bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em trong một số gia đình Việt Nam lâu nay? Phải chăng Nguyễn Minh Châu đã kín đáo nói về một căn nguyên đầy nước mắt mà thi hào Nguyễn Du đã viết trong “Văn chiêu hồn” hơn hai thế kỉ trước:

    “Đau đớn thay phận đàn bà,

    Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”

Dàn ý Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

1, Mở bài

– Giới thiệu những nét khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu.

– Giới thiệu những nét khái quát về truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”.

2, Thân bài

a, Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

– Vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa – “cảnh trời đất cho”

+ Bức tranh với hình ảnh của chiếc mũi con thuyền đang “in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng”, là hình bóng của những con người, có cả người lớn lẫn trẻ em đang ngồi im như tượng nơi mũi thuyền ấy.

-> Một “bức tranh mực tàu của một danh họa thời trung cổ” với vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”

+ Cảm nhận của người nghệ sĩ: cảm thấy “bối rối, trong trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào”

-> Phùng là một người nghệ sĩ có tâm hồn tinh tế, nhạy bén và có khả năng rung cảm trước cái đẹp

– Bức tranh về cuộc sống thô bạo, phi nhân đạo và tàn nhẫn

+ Cảnh người đàn ông đánh đập vợ một cách tàn bạo, lão “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”.

+ Cảm nhận của người nghệ sĩ:ngạc nhiên đến mức anh cứ há hốc mồm ra mà nhìn, anh như chết lặng người, không tin vào điều mình vừa thấy.

Xem thêm:  Người lái đò sông Đà - tác giả, nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý

– Mối quan hệ giữa hai phát hiện: hai phát hiện của người nghệ sĩ Phùng hoàn toàn đối lập nhau, đó phải chăng là sự đối lập giữa cái đẹp với cái xấu, giữa cái đạo đức với cái phi đạo đức, giữa cái thanh cao với cái tàn nhẫn.

b, Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện.

– Người đàn bà được mời đến tòa án huyện để giải quyết việc gia đình.

– Bà chấp nhận đánh đổi tất cả mọi thứ để không phải bỏ chồng.

– Những lí do người phụ nữ ấy đưa ra khiến Phùng và Đẩu phải thuyết phục vfa chứng tỏ người đàn bà ấy là một người sắc sảo:

+ Với những con người hàng chài, người đàn ông chính là trụ cột của cả gia đình,

+ Chị và chồng đã cùng nuôi dạy những đứa con,

+ Từng có những phút giây êm ấm, hòa thuận và hạnh phúc bên nhau

– Chị kể về chồng bằng tất cả tình yêu và sự thấu hiểu:

+ Chồng chị vốn là “một người đàn ông cục tính nhưng hiền lành lắm”, anh chả đánh đập vợ bao giờ.

+ Cuộc sống ngày càng trở nên nghèo khổ, vất vả, cơ cực và túng quẫn, người đàn bà thì để nhiều nên thuyền ngày một chật đi, chính vì thế nên chồng chị mới ngày càng trở nên độc dữ

-> Như vậy, trong mắt người đàn bà hàng chài, chồng bà cùng những hành động tàn ác của anh xét đến cùng chỉ là sản phẩm của sự nghèo túng, người đàn ông ấy vừa đáng trách nhưng cũng thật đáng thương, đáng được cảm thông.

-> Người đàn bà có cái nhìn khác hẳn với Phùng và Đẩu bởi bà không chỉ nhìn thấy cái bên ngoài mà còn phát hiện ra cái bản chất, cái cốt lõi bên trong. Qua đó, tác giả muốn gửi tới bạn đọc thông điệp về cách nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc đời.

c, Tấm ảnh đã được chọn vào trong “bộ lịch năm ấy”.

– Khi nhìn vào tấm ảnh ấy, Phùng thấy: “màu hồng hồng của ánh sương mai” và cả hình ảnh của người đàn bà bước ra từ tấm ảnh đó.

– Hình ảnh mang đậm ý nghĩa biểu tượng.

+ Ánh hồng sương mai chính là hình ảnh biểu tượng cho vẻ đẹp, sự bay bổng, lãng mạn c

+ Người đàn bà hàng chài chính là hiện thực của cuộc đời.

-> Tác giả Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới người đọc quan niệm của mình về nghệ thuật,

3, Kết bài

– Khái quát những nét đặc sắc về giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm và nêu cảm nghĩ của bản thân.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 3

Với Nguyễn Minh Châu nhà văn tồn tại ở đời là để nâng giấc cho những con người cùng đường, tuyệt lộ, những người bị cái ác và sự xui rủi dồn đến chân tường tuyệt vọng, để bênh vực cho những con người không có ai bênh vực. Niềm khát khao bênh vực, bảo vệ những con người bị chà đạp, đày đọa hắt hủi như thế cùng với tấm lòng thiết tha truy tìm những vẻ đẹp tiềm ẩn sâu tận đáy tâm hồn của mỗi con người, đã trở thành nguồn sáng giúp Nguyễn Minh Châu viết nên tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, một trong những tác phẩm kiệt tác của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Tác phẩm chứa đựng những giá trị nhân văn, những triết lý sâu sắc về đời người bằng ánh nhìn đa diện nhiều chiều của tác giả, về mối liên quan chỉ cách nhau một ranh giới thật mỏng manh là hiện thực cuộc đời và nghệ thuật.

Nguyễn Minh Châu nổi tiếng với nhiều tác phẩm như Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau,… nhà văn Nguyễn Trung Thành từng ca ngợi “Nguyễn Minh Châu thuộc vào trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng” nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Suốt cuộc đời cầm bút, ông luôn trăn trở, tìm tòi cái hạt ngọc quý vẫn ẩn giấu trong tâm hồn của mỗi con người bình thường nhất. Chiếc thuyền ngoài xa ra đời tháng 8/1983, in trong tập Bến quê (1985), sau trở thành nhan đề chung cho tập Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm là câu chuyện về chuyến công tác xa của một nhiếp ảnh tên Phùng, sau chuyến công tác ấy anh đã nhận ra những quan niệm mới mẻ về nghệ thuật, về cái đẹp và về đời người đầy những vết nham nhở, sần sùi.

Chiếc thuyền ngoài xa bắt đầu bằng một cốt truyện độc đáo và bất ngờ, nếu nói mạch cảm xúc và cấu tứ là cái để người ta vịn vào tìm hiểu nội dung của một văn bản thơ, thì tình huống truyện chính là một khởi điểm chắc chắn để khai thác, tìm tòi những cái đặc sắc của một tác phẩm văn xuôi. Đó là những sự kiện éo le, bất ngờ, khác lạ để mở ra một câu chuyện dài ở phía sau, mà theo như ý của Nguyễn Minh Châu thì tình huống truyện là “cái tình thế mà ở đó sự sống hiện ra một cách đậm đặc, cái khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người”. Từ tình huống truyện tính cách, số phận của nhân vật được gợi mở, cũng từ tình huống truyện mà chủ đề cũng như những giá trị mà tác giả xây dựng được hé lộ một cách tinh tế và độc đáo.

Trong chuyến công tác dài ngày, sau nhiều buổi sáng “phục kích” tại bãi biển thì cuối cùng may mắn cũng đã đến với nhiếp ảnh gia là Phùng, một “cảnh đắt trời cho” đã xuất hiện ngay trước mắt mà có lẽ suốt cả cuộc đời cầm máy ảnh anh chưa từng được thấy bao giờ, đó là một cảnh được ví như là “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Phùng sướng điên người, đến mức giơ máy ảnh lên bấm “liên thanh” hết cả một phần tư cuốn phim. Cảnh chiếc thuyền lưới vó cập bến, dưới cái ánh nắng “hồng hồng” tờ mờ hơi sương quả thực là tuyệt mỹ, khiến người ta lặng người, tim thắt chặt lại bởi cái sự “đơn giản và toàn bích”. Như vậy phát hiện thứ nhất của Phùng chính là “khám phá ra cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, rằng vẻ đẹp của nghệ thuật là đạo đức.

Nhưng những tưởng một cảnh đẹp ấy sẽ là mãi mãi không có một tỳ vết thì phát hiện thứ hai của Phùng lại dường như lật ngược lại vẻ toàn mỹ, phá tan đi cái sự toàn bích, toàn thiện, phá tan đi cái “im phăng phắc” của một buổi sớm mai đẹp đẽ bình yên. Một người đàn bà thô kệch, lam lũ lững thững bước ra từ “bức tranh mực tàu”, một người đàn ông thô lỗ, cục súc bước theo sau kèm theo tiếng quát dọa “giết” thật đáng sợ. Cảnh bạo lực gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng người đàn ông thẳng tay quất chiếc thắt lưng vào lưng người đàn bà, hắn ta vừa đánh điên cuồng vừa thốt những lời nguyền rủa độc địa “Mày chết đi cho ông nhờ! Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Không có một sự chống trả, người đàn bà lặng im chịu đựng trận đòn roi, không chạy trốn, dường như đã chai sạn, chán chường và nhẫn nhục.

Phùng chết sững bởi chỉ mới trước đó thôi những con người ấy còn đóng một vai trong cái cảnh toàn bích, hoàn mỹ, mà trước mắt bây giờ lại là hiện thực tàn nhẫn, điều ấy như giáng một cái tát đau điếng vào tâm hồn của người nghệ sĩ yêu cái đẹp. Với tâm hồn lương thiện và đạo đức của một con người Phùng quăng ngay máy ảnh, định lao vào can ngăn cái cảnh khốn nạn kia, thế nhưng bất ngờ hơn khi đứa con trai của họ đã lao vào giằng lấy thắt lưng của người bố đánh trả để bảo vệ mẹ, lão đàn ông cho nó một cái tát như trời giáng, rồi bỏ đi. Ôi! Chuyện gì đang diễn ra giữa một buổi sáng thế này, Phùng bàng hoàng, Phùng sốc trước cảnh chồng đánh vợ, con đánh bố, rồi bố đánh con, thật hỗn loạn, phá nát hết cái vẻ đẹp tuyệt mĩ mà anh vừa mới nhận ra. Lúc này đây anh mới vỡ lẽ hóa ra ranh giới giữa cái vẻ đẹp toàn mỹ, toàn bích và sự thật nghiệt ngã xấu xa của cuộc sống chỉ cách nhau một bức màn mỏng manh, chúng chẳng thể chịu được sự tàn phá của hiện thực cuộc đời đầy xấu xí.

Hiện thực và nghịch lý cuộc sống hầu như thể hiện một cách rõ nét trên hình ảnh người đàn bà hàng chài, chị là hiện thân cho nỗi khốn khổ, nhọc nhằn của những người phụ nữ miền biển của nước ta sau ngày đất nước giải phóng không lâu. Cuộc đời người phụ nữ nào phải nói là quá bất hạnh khi phải gánh trên lưng ba nỗi khổ lớn, thứ nhất là ngoại hình xấu xí, dáng dấp cao lớn, “đường nét thô kệch”, khuôn mặt lại chằng chịt những nốt rỗ sau một trận đậu mùa thời nhỏ, nét mặt thì nhợt nhạt vì thức đêm nhiều, lại phải lao động vất vả cả đêm. Bà vốn xuất thân khá giả nhưng khốn nỗi vì quá xấu nên không ai lấy, bởi vậy nên việc xấu xí đã là một bất hạnh to lớn trong cuộc đời người phụ nữ. Sau khi lấy chồng, sinh con thì chị lại tiếp tục mang trên vai nỗi khổ nghèo túng, nhà đông con thuyền thì nhỏ, cuộc sống quá đỗi vất vả, nhọc nhằn, đến nỗi có những ngày đằng đẵng phải ăn cả xương rồng luộc chấm muối.

Cái nghèo đã hành hạ thể xác, còn hành hạ cả về tâm hồn của người phụ nữ này khi phải lo toan bộn bề cuộc sống. Sống vốn đã vất vả chị còn có nhiều con, mang nặng đẻ đau tới trên dưới mười đứa con tất cả, càng đẻ, cuộc sống càng khó khăn càng đè nặng trên đôi vai của chị, cuộc sống càng thêm túng quẫn. Đó là một cái vòng luẩn quẩn không lối thoát. Nghèo đói, đông con đã gần như làm đôi vai người đàn bà ấy sụp xuống thế nhưng chị vẫn phải tiếp tục chịu đựng sự vũ phu với những cơn đòn “ban ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” từ người chồng. Điều ấy không những đem lại đau đớn vô hạn về thể xác mà còn gây tổn thương sâu sắc đến tâm hồn của người đàn bà làng chài, khi bị người đầu ấp tay gối hằng ngày đánh đập, chì chiết. Và hơn cả là nỗi lo lắng về sự mất niềm tin, về những sang chấn tâm lý mà những đứa con nhỏ của chị phải gánh chịu, chị sợ chúng nó bị tổn thương ám ảnh về những kỷ niệm ấy thơ tàn nhẫn mà bố gây ra cho mẹ chúng nó.

Phùng chứng kiến cái cảnh khốn khổ của người phụ nữ bất hạnh, nhiều lần khuyên chị ly hôn để giải thoát khỏi cái gã chồng vũ phu, nhưng chị một hai không đồng ý. Bề ngoài chắc có nhiều người lắc đầu vì sự cố chấp của người đàn bà ấy, nhưng mấy ai có thể hiểu vén lên cái bức màn nghiệt ngã, thì bao nhiêu uẩn khúc, bao nhiêu cái bất đắc dĩ mới dần lộ ra. Trong cái khốn khổ, bất hạnh của một người đàn bà xấu xí ta lại bất chợt nhận ra những vẻ đẹp tâm hồn thật đáng quý, chị không muốn bỏ chồng, trước là vì đã từng chịu ơn hắn ta, lòng biết ơn chồng vì đã cứu rỗi cuộc đời chị, đã cho chị một mái ấm gia đình mặc dù bây giờ nó cũng sứt sẹo, chẳng mấy hạnh phúc.

Nếu như những người như thằng Phác, Phùng, chánh án Đẩu đều thấy lão chồng là một kẻ đáng ghét, man rợ, đáng bỏ thì chị lại cho rằng chồng chị là một người đáng thương cần được thông cảm, sẻ chia. Chị nhớ về những ngày xưa, nhớ về những điều tốt đẹp của người chồng “cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập tôi”, vì trốn lính mà gia đình đâm túng quẫn , chính cái nghèo đói đã khiến chồng chị trở thành một kẻ vũ phu, cục súc. Người đàn bà khốn khổ vơ hết lỗi về mình “giá mà tôi đẻ ít đi”, chị nhẫn nhục chịu đựng, lại có tấm lòng bao dung vô bờ bến, nhìn và thấu hiểu những nỗi khổ mà người khác gánh chịu để cảm thông, chỉ duy nhất chị không bao dung cho bản thân mình.

Người phụ nữ ấy hy sinh, nhẫn nhục cũng không chỉ vì lòng biết ơn, lòng thông cảm hay tình yêu với chồng mà trên tất cả là vì những đứa con thân yêu của mình. Lòng người mẹ lúc nào cũng bao la mà rộng rãi đến thế, chị còn phải nuôi hơn chục đứa con thơ dại, chị cần “một người đàn ông chèo chống lúc phong ba”. Chị mặc định “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ” cho nên họ “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”, cả cuộc đời người đàn bà làng chài có lẽ chỉ có hy sinh, với chị nhìn con được ăn no cũng là hạnh phúc lắm rồi, rồi cũng có những lúc gia đình chị “hòa thuận vui vẻ”.

Người đàn bà làng chài còn là một người có suy nghĩ thâm trầm sâu sắc, hiểu lý lẽ, thấu tình đời, chị dễ dàng nhận ra cuộc sống trong đôi mắt của Phùng và chánh án Đẩu quá ngây thơ, quá giản đơn. Chị dùng những lý lẽ hết sức thuyết phục, chị mở lòng nói về đời mình để cho hai người họ hiểu được rằng tại sao chị không thể bỏ chồng, chị cũng biết khổ biết đau đớn chứ, nhưng đã vào trong cái khốn khổ ấy người ta mới phát hiện có những chuyện không thể nào làm khác.

Đó chính là nghịch lý của cuộc sống, phải lúc này đây nhân vật Phùng mới thông suốt được, anh nhận ra rằng không thể giải phóng con người khỏi đói nghèo, khỏi bạo lực gia đình chỉ bằng lòng tốt và pháp luật . Cũng nhận thức được việc không thể chỉ dùng cái nhìn phiến diện một chiều để đánh giá toàn thể sự việc, mà phải dùng đôi mắt trực quan nhiều chiều để suy xét và tìm hiểu. Hơn cả là bài học rút ra rằng nghệ thuật phải gắn liền với cuộc đời, phải đi ra từ những hiện thực khốn khổ, phải đào sâu tìm kỹ, khai thác cho được cái hạt minh châu chôn giấu trong tâm hồn mỗi một số phận con người, đó mới là làm nghệ thuật chân chính.

Nguyễn Minh Châu, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng đều là những người có nhận thức rất sâu sắc và tinh tế về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Nam Cao từng thốt lên rằng “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”, còn Nguyễn Huy Tưởng viết trong Vũ Như Tô rằng: “Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi”. Nguyễn Minh Châu cũng đồng những quan điểm vậy, ông sâu sắc nhận ra rằng “Ngọc lành có vết, việc đời đa đoan”, làm chi đâu có cảnh toàn bích, toàn mỹ, chẳng qua ấy chỉ là bề nổi, ẩn sâu sau đó là những hiện thực phũ phàng. Mà từ đó người nghệ sĩ phải dùng một đôi mắt đa diện, thấu hiểu để nhìn nhận những vẻ đẹp đạo đức và nhân văn, chớ nên chạy theo những vẻ đẹp dẫu hào nhoáng mà trống rỗng, vô hồn.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 4

Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu được đánh giá mang tính chất tự sự và triết lí. Mỗi tác phẩm ông viết lên luôn nhằm khám phá, phát hiện ra muôn vàn vẻ đẹp của cuộc sống. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm xuất sắc của họ, được viết năm 1983, khắc họa cái lãng mạn của nghệ thuật và sự trần trụi của hiện thực đời thường.

Nhận được yêu cầu của thủ trường, Phùng đã mang máy ảnh về vùng chiến trường cũ, chụp một bức tranh kiệt tác để hoàn thành bộ lịch năm nay. Và trong lần ấy người nghệ sĩ đã chiêm nghiệm được biết bao chuyện, biết bao điều trong cuộc sống đầy những lo toan, vất vả này.

Sau những ngày chật vật, quả thực hôm đó người nghệ sĩ Phùng đã gặp vận may hiếm có, cảnh đẹp trời cho hiện ngay trước mặt Phùng. Anh không chần chừ, vội vàng lôi máy ra tác nghiệp, khung cảnh trước mắt hiện ra vô cùng diệu kì: “thuyền in một nét mơ hồn lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”. Đây quả là bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ. Trái tim anh dường như bị bóp nghẹn, bối rối không nói thành lời trước cái đẹp của thiên nhiên, tạo hóa. Lúc bấy giờ anh mới cảm thấm được “cái đẹp chính là đạo đức”. Cái đẹp và nghệ thuật đã thanh lọc tâm hồn con người, giúp tâm hồn con người ta trở nên thánh thiện hơn. Nhưng chúng ta cũng cần chú ý đến một chi tiết, đó là vị trí khi Phùng chụp ảnh vẫn còn ngổn ngang những tàn dư của chiến tranh để lại. Có phải chỉ vì đôi mắt thi vị hóa lãng mạn hóa của một người nghệ sĩ mới khiến Phùng cảm nhận được khung cảnh “trời ban kia”. Đồng thời, cũng chính bởi vậy, sau này khi phát hiện ra sự thật Phùng đã hụt hẫng biết nhường nào.

Đằng sau bức tranh toàn bích kia lại là một hiện thức làm người ta nhói lòng. Trong cảnh thanh tĩnh là tiếng gầm ghè, đầy phẫn nộ “cứ ngồi nguyên đây, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ” rồi hình ảnh người đàn bà dần dần lộ diện, to lớn, thô kệch đi sau người đàn ông hung ác, độc dữ. Những gì xảy ra sau đó làm cho Phùng quá đỗi bất ngờ và choáng váng. Người đàn ông rút chiếc thắt lưng, vừa quất tới tấp vào người đàn bà. Nhưng kì lạ thay người phụ nữ đó không hề kêu than lấy một tiếng, Điều đó làm Phùng “há mồm mà nhìn” vô cùng “kinh ngạc”. Sau nỗi kinh ngạc, Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống vội vàng can ngăn. Thì chính lúc này, một cái bóng nhỏ con lao vụt đến, nhắm thẳng vào người đàn ông.

Người mẹ tội nghiệp, gọi tên đứa con “ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy…”, khiến người đọc không khỏi xót thương, xúc động. Tất cả những hình ảnh đó làm Phùng bàng hoàng, đau đớn. Rất nhanh gia đình nọ rời đi, khung cảnh trở về cảnh thanh tĩnh như nó vốn có. Với Phùng đây có lẽ là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: “chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì trần trụi, ở ngay trước mắt”. Phùng đau đớn vì trước nay cái nhìn của mình quá giản đơn, xuôi chiều, mà hiện thực cuộc sống lại vô cùng đa đoan, phức tạp.

Lần tiếp theo Phùng và người đàn bà hàng chài gặp lại nhau chính là ở trụ sở tòa án huyện. Và lần này cả Phùng và Đầu đều có những chiêm nghiệm riêng cho mình về con người và cuộc đời. Người đàn bà lúc này ngồi sâu nơi góc tường, cố thu mình lại, dáng vẻ vô cùng sợ sệt. Có lẽ đây là lần đầu tiên người đàn bà này đến cơ quan công quyền của nhà nước. Mụ phủ phục, lạy lấy lạy để vô cùng đáng thương: “con lấy quý tòa” “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt bỏ nó”. Vì sao vậy? Vì sao mụ lại xin tha cho một kẻ độc ác, nhẫn tâm đánh ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng. Nào Phùng và Đẩu có thể hiểu được. Sau những bỡ ngỡ ban đầu, người đàn bà có vẻ đã quen hơn, chị tâm sự về cuộc đời mình, về việc không ai lấy, tâm sự về người chồng hiện tại: “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Rồi bà lí giải nguyên nhân vì sao chồng mình lại sinh ra tính như vậy. Bởi vì cảnh nghèo, bởi vì khổ quá, nên đàn ông trên thuyền chỉ biết hoặc uống rượu, hoặc đánh vợ mỗi khi cảm thấy khổ quá. Bởi, trên vai người đàn ông đó phải gánh vác biết bao trách nhiệm, nhất là những lúc biển động: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được…”. Đó là lí do vì sao dù bị chồng đánh chị vẫn cam tâm tình nguyện, vẫn xin tha cho hắn. Bởi ngoài những lúc bị đánh đập qua, cuộc sống hòa thuận, nhìn đám con được ăn no chị cũng cảm thấy vô cùng vui long,…

Chỉ qua những lời chia sẻ hết sức ngắn gọn của chị ta có thể thấu hiểu được nỗi thống khổ, sự cam chịu, nhẫn nhục trong người phụ nữ này. Tình mẫu tử thiêng liêng đã khiến chị sẵn sàng hi sinh mọi thứ để con được sống, được ăn no. Đồng thời cũng giúp ta thêm hiểu căn nguyên của tình trạng bạo lực trong những gia đình nghèo khổ.

Quả thực qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ta lại càng thấy rõ hơn không chỉ thể đánh giá một con người, một sự việc qua vẻ bề ngoài của nó. Sự việc, con người vốn nông sâu khôn lường, nếu không truy nguyên, không lắng lòng để nghe thì cả đời này chúng ta chỉ là những kẻ hời hợt, đi đánh giá mọi chuyện bằng con mắt thờ ơ.

Tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm này phải kể đến nghệ thuật tạo dựng tình huống bất ngờ, hấp dẫn. Nhà nhiếp ảnh phát hiện khoảnh khắc trời cho, nhưng đằng sau đó lại là cảnh bạo lực tàn nhẫn. Cho người đàn bà đến để nói chuyện, để phân tích lí giải nhưng nào ngờ chính Phùng và Đẩu lại được người phụ nữ tưởng như thô kệch ấy làm cho “sáng mắt”. Giúp họ hiểu hơn những quanh co, uẩn khúc trong cuộc đời, từ đó có những nhận xét đánh giá đứng đắn trước bất cứ sự việc, hiện tượng nào.

Với tình huống truyện đặc sắc, chân thực Chiếc thuyền ngoài xa mang giá trị nhân đạo và nhân bản sâu sắc. Cuộc đời này gồm cả rồng phượng, gồm cả đúng sai, tốt xấu. Bởi vậy khi đánh giá bất cứ điều gì cũng không nên hời hợt. Cuộc sống này vô cùng phức tạp, để hiểu nó cần phải soi ngắm từ nhiều phía, nhiều góc cạnh. Bài học cho Phùng và Đầu cũng chính là những gì Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm đến các thế hệ bạn đọc.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 5

Nhà văn Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ông được coi là người “mở đường tài năng và tinh anh nhất”. Trước năm 1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính.

Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết lý nhân sinh. Ông khám phá con người trong cuộc đời mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc, khám phá hạt ngọc ẩn dấu, khuất lấp trong mỗi con người. Tiêu biểu cho những kiếm tìm đề tài và trách nhiệm của người nghệ sĩ là tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, in trong tập truyện cùng tên năm 1987.

Truyện ngắn được ra đời tháng 8/1983 được in trong tập truyện ngắn cùng tên, khi cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc qua đi. Đất nước bước vào thời kì mới, thời kỳ độc lập thống nhất. Cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người trước đây do hoàn cảnh của chiến tranh chưa được đặt ra

Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu ấy, ”Chiếc thuyền ngoài xa” đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến “lưới vó biến mất”. Ở phần này, tác giả đi sâu vào kể về hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai: tiếp theo đến “giữa phá” là câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện. Và phần ba còn lại – tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.

Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh tuyệt đẹp được người nghệ sĩ Phùng ghi lại vào một buổi sáng mờ sương ở một phà nước miền Trung. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, được cấp trên giao cho chụp một bức ảnh chủ đề thuyền và biển để đăng trong bộ lịch năm ấy.

Anh đã đi thực tế tại tại vùng biển miền Trung nơi trước kia đã từng chiến đấu và có người bạn ở đó. Khi đến đây anh bắt gặp một bức tranh tuyệt đẹp đó là hình ảnh của thuyền và biển trong sương sớm. Đây cũng chính là tình huống độc đáo của truyện qua đó ta thấy được nhiều điều trong cuộc sống này. Nhưng sau bức tranh ấy Phùng lại có phát hiện mới.

Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống là vấn đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc cuốn hút theo câu chuyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu truyện, khi nhân vật ở trong tình thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người. Tình thế cũng có thể là bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt lõi sâu thẳm tiềm ẩn trong truyện.

Tình huống truyện của ‘Chiếc thuyền ngoài xa’ là tình huống nhận thức, khám phá. Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống của truyện được thể hiện qua hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã giúp Phùng nhận ra được nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám phá sự thực bên trong và chiều sâu bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu rõ bên trong số phận và tâm hồn con người.

Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa. Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng là khung cảnh thiên nhiên hoàn mĩ, đẹp thơ mộng. Người nghệ sĩ phát hiện ra một vẻ đẹp trên mặt biển mờ sương. Đó là cảnh một chiếc thuyền trong buổi sớm mai đang dần tiến vào bờ Cảnh tượng khiến cho người nghệ sĩ cảm thấy may mắn và hạnh phúc khi được chứng kiến một bức tranh tuyệt vời đến như vậy. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một họa sĩ thời cổ”. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe …chiếu vào”. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con đang dần tiến vào bờ.

Xem thêm:  Soạn bài Luyện tập thao tác lập luận phân tích ngắn nhất

Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến màu sắc ánh sáng đều hài hòa với nhau làm nên một vẻ đẹp toàn bích. Tác giả gọi đó là cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp mà trong cuộc đời diễm phúc lắm may ra bắt gặp được một lần. Nghệ sĩ Phùng tự nhận ra rằng cái đẹp chính là đạo đức. Trước bức tranh mực tàu ấy Phùng cảm thấy bối rối trong tim anh như có cái gì đang bóp chặt lấy. Đó là khoảnh khắc trong ngần của cuộc đời.

Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, anh thấy được cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện -mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết. Thông qua cảm xúc của nhân vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái chân-thiện-mĩ, cái đẹp là đạo đức.

Thế nhưng cảnh càng đẹp bao nhiêu thì thực tế cuộc sống lại đen tối bấy nhiêu. Đó chính là phát hiện thứ hai của Phùng trước khung cảnh tuyệt vời ấy. Hiện thực nghiệt ngã của con người với số phận bất hạnh của những con người nơi đây đặc biệt là người đàn bà hàng chài hiện lên. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là người phụ nữ xấu xí và người đàn ông hung dữ, cặp vợ chồng hiện thân cho sự lam lũ đói khổ.

Chính khuôn mặt nét người của họ đã nói lên phần nào cái cuộc sống khổ cực mà họ phải chịu. Người vợ “trạc ngoài 40”, “mặt rỗ”, “thân hình cao lớn thô kệch”, “lưng áo bạc phếch”, “gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới” … dường như bao nhiêu sương gió nắng mưa của đất trời đã chiếu thẳng vào người đàn bà ấy vậy. Còn người đàn ông thì cũng chẳng hơn gì: “có tấm lưng rộng”, đi chân chữ bát khuôn mặt “độc, dữ”. Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài.

Một cảnh tượng diễn ra khiến cho nghệ sĩ Phùng không thể nào tin vào mắt mình và cái cảnh đẹp kia bỗng chốc biến thành một hình ảnh vô cùng thậm tệ. Hai con người khổ sở ấy đi vào phía bãi xe tăng hỏng và thật bất ngờ trước cảnh tượng ấy: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ,mặt đỏ gay,lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng … lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà,lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két..”.

Trong “chiếc thuyền ngoài xa”, một sự thật còn trớ trêu,cay đắng nữa: Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé chạy một mạch,sự giận dữ căng thẳng…lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông… liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”. Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống xót xa.

Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao). Những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài nhỏ xuống lấp đầy những vết rỗ chằng chịt kia. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền.

Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản một chiều mà chứa nhiều nghịch lý ngang trái, mâu thuẫn. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu thiện và ác. Ở đây nhà văn khẳng định đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài với nội dung bên trong. Khi nhìn nhận đánh giá cuộc đời thì phải có cái nhìn đa chiều nhiều phía.

Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm trong lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng, Phùng đã nói với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ.Phùng và Đẩu đều có ý tốt mong cho người phụ nữ ấy thoát khỏi người chồng vũ phu.

Chính vì vậy người đàn bà hàng chài đã được chánh án Đẩu mời đến tòa án huyện và giải pháp được đưa ra là li hôn với chồng. Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện ban đầu chị tỏ ra rất sợ hãi khép nép sau khi nghe những phân tích và sự giúp đỡ của Đẩu thì chị bỗng bình tĩnh và thay đổi cách xưng hô không còn khép nép nữa mà nói ra những tâm sự những suy nghĩ của bản thân mình. Những lời tâm sự của chị đã khiến người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu xí, của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân vật Phùng nhận ra được nhiều điều.

Người đàn bà kể lại cuộc đời mình rằng: Trước kia bà cũng là một người con nhà khá giả, nhưng sau một trận thủy đậu làm cho bà dỗ hết mặt không ai thèm lấy bà. Khi ấy ông chồng của bà lại là người làm vườn. Bố mẹ mất đi người đàn ông ấy đã cứu vớt cuộc đời của bà chính vì thế mà bà bị đánh đập nhưng cũng không nỡ bỏ người chồng đồng thời cũng là ân nhân của mình. Hiện giờ cuộc sống của bà khổ về cả vật chất lẫn tinh thần.

Gia đình bà sống cùng nhau trên một con thuyền nhỏ. Con thuyền ấy vừa là phương tiện kiếm sống lại cũng là ngôi nhà che nắng che mưa. Bà thường xuyên bị đánh đập, ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng. Thế nhưng bà không hề chống lại chồng mình, cam chịu, nhẫn nhục, bà coi một việc bị đánh là một chuyện đương nhiên, thậm chí sợ các con nhìn thấy bà xin chồng đánh khi vào bờ.

Khi nghe những lời khuyên của Đẩu và Phùng, biết lòng tốt của họ nhưng bà nhất quyết không bỏ chồng vì người chồng là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của gia đình nhất là khi phong ba bão táp. Người đàn bà cần chồng vì còn phải nuôi những đứa con kia. Và hơn nữa trên thuyền cũng có những lúc gia đình hạnh phúc vui vẻ. Người đàn bà chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường khi nhìn thấy các con được ăn no.

Thị nhận lỗi, cho rằng đẻ nhiều con là cái tội của mình. Trong suy nghĩ của Phùng, Đẩu và thằng Phác người đàn ông kia là kẻ thô lỗ, độc ác, dã man đáng lên án. Nhưng với người vợ thấu hiểu và cảm thông, người đàn ông ấy cũng chỉ là nạn nhân, hắn trước kia hiền lành lắm, cũng vì cuộc sống nghèo khổ quá nên mới như vậy. Từ đó cho thấy người đàn bà hàng chài tuy là một người phụ nữ không học hành, xấu xí nhưng lại có một trái tim nhân hậu tiêu biểu cho nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt nam. Thị là người chấp nhận hi sinh để sống cho các con, một người vị tha và sâu sắc lẽ đời.

Trước những lẽ ấy thoạt đầu Đẩu và Phùng nghiêm nghị thấy bất bình nhưng về sau thì như vỡ lẽ ra nhiều điều.Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.

Cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mình hay nó vốn là cái mình nhìn thấy trên bề nổi mà nó là phần chìm bên trong câu chuyện kia. Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điệp, một triết lý. Đó là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Đó mới là cái giá trị đích thực của cuộc sống này. Từ một người đàn bà nhút nhát sợ hãi người đàn bà trở nên sâu sắc làm cho hai người đành phải để người phụ nữ ấy về với gia đình mình.

Câu chuyện kết thúc khi bức ảnh tuyệt bích được chọn in trong tấm lịch năm ấy và bức tranh còn được treo mãi trong những gia đình sành nghệ thuật. Điều này khẳng định giá trị nghệ thuật của bức tranh. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó. Với anh, khi đứng trước bức ảnh đen trắng lại thấy một màu hồng trong buổi sớm ban mai và nhìn kĩ hơn nữa lại thấy bước ra từ trong tranh là người đàn bà hàng chài lam lũ.

Như vậy nếu hiểu bức tranh thuyền và biển kia là hình ảnh của nghệ thuật và người đàn bà hàng chài bước ra từ trong tranh là hình ảnh của cuộc đời thì Nghệ thuật và cuộc đời phải gắn liền với nhau. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền với cuộc sống. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.

Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng), “Chiếc thuyền ngoài xa” đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu là đã đem đến cho người đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật. Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại.

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Mỗi người trong cõi đời,nhất là người nghệ sĩ,không thể đơn giản,sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự – triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 6

Một trong những cái tên nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới chính là Nguyễn Minh Châu. Ông được coi là người “mở đường tinh anh và tài năng nhất”. Trước năm 1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết lý chân thực. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy là ‘Chiếc thuyền ngoài xa’.

Truyện ngắn được ra đời năm 1983, đến năm 1987 được in trong tập truyện ngắn cùng tên. Năm 1983 là thời kỳ độc lập của đất nước ta. Cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người. Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu ấy, ‘Chiếc thuyền ngoài xa’ đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến “lưới vó biến mất”. Ở phần này, tác giả đi sâu vào kể và phân tích hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai: tiếp theo đến “giữa phá”. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài được kể tại đây. Phần ba còn lại. Tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.

Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Ai cũng biết, tình huống là vấn đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc cuốn hút theo câu chuyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu chuyện, khi nhân vật ở trong tình thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người. Tình thế cũng có thể là bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt lõi sâu thẳm tiềm ẩn trong truyện. Tình huống truyện của ‘Chiếc thuyền ngoài xa’ là tình huống nhận thức. Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống của truyện được thể hiện qua hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã giúp Phùng nhận ra được nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám phá sự thực bên trong và chiều sâu bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu rõ bên trong số phận và tâm hồn con người. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.

Đi vào phần một của truyện là một cảnh sắc thiên nhiên đẹp thơ mộng. Phùng đã chụp được một “cảnh đất trời cho”: một chiếc thuyền lòe nhòe trong sương sớm với ánh mặt trời ban mai hồng hồng. Một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ. Đứng trước cảnh đẹp ấy, người nghệ sĩ thấy tim mình như có gì đó “bóp thắt vào”. Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, anh thấy được cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện -mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết. Thông qua cảm xúc của nhân vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái chân-thiện-mĩ, cái đẹp là đạo đức. Nhưng để hoàn thiện cho quan niệm về nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã để nhân vật của mình chứng kiến câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài. Đó là một con người hiện thân cho sự lam lũ đói khổ. Từ trong chiếc thuyền đẹp như mơ kia bước ra một cặp vợ chồng. Người vợ “trạc ngoài 40”, “mặt rỗ”, “thân hình cao lớn thô kệch”, “lưng áo bạc phếch”, “gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới”. Người đàn ông “có tấm lưng rộng”, khuôn mặt “độc, dữ”. Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Điểm đánh chú ý chính là cảnh bạo hành của hai con người này. Người chồng thì đánh đập người vợ dã man, người vợ thì cam chịu trận đòn. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền. Chính từ cảnh tượng tàn bạo ấy, tác giả đã có thể gửi gắm thông điệp của mình. Đó là cuộc sống có nhiều nghịch lý mâu thuẫn, nếu chỉ quan sát bên ngoài hoặc ở xa thì không thể phát hiện được sự thật bên trong nó. Cái đẹp của nghệ thuật qua ống kính của người nghệ sĩ chưa thể được sức mạnh để làm nên đạo đức con người trong cuộc sống.

Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm trong lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng, Phùng đã nói với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ. Người đàn bà hàng chài đã được chánh án Đẩu mời đến để khuyên chị li hôn với chồng. Nhưng rồi những lời tâm sự của chị đã khiến không chỉ hai chàng trai mà cả người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu xí của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân vật Phùng nhận ra được nhiều điều. Mặc dù bị đánh đập dã man “ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ” nhưng người phụ nữ vẫn quyết không bỏ chồng. Vì chị thương con, muốn đàn con được ăn no. Vì thương chồng vất vả mà không giúp gì được nên chịu đòn mong có thể san sẻ được với chồng. Rồi chị tự nhận lỗi về mình, chị biết ơn chồng mình. Chị chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi “trên thuyền cũng có lúc sống vui vẻ hạnh phúc”. Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điệp, một triết lý. Đó là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền với cuộc sống.

Kết thúc câu truyện, tác giả nhắc lại về bức ảnh chụp của nghệ sĩ Phùng nhằm nhấn mạnh sức ảnh hưởng của nó. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó.

Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện( nhân vật Phùng), “Chiếc thuyền ngoài xa” đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho người đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật. Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 7

Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, tại Quỳnh Lưu, Nghệ An, một vùng quê có truyền thống hiếu học lâu đời. Ông là một nhà văn rất có trách nhiệm với cuộc đời, luôn khát khao đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu bên trong mỗi con người. Những tác phẩm của ông thường nhẹ nhàng mà thấm đẫm những triết lý sâu sắc, đó cũng là nét nổi bật làm nên phong cách văn học của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm thành công và gây nhiều ấn tượng trong lòng đọc giả của ông.

Tác phẩm được ra đời vào năm 1983, đó là khoảng thời gian sau ngày dân tộc thống nhất, cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi. Hai miền Năm Bắc sum họp, cả nước đoàn kết cùng nhau đứng lên dựng xây đời mới để có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Song, đây cũng là thời điểm mà những hậu quả do chiến tranh để lại vẫn còn rất lớn, nhiều thách thức đặt ra trong đời sống của nhân dân, đặc biệt là cái nghèo, cái đói.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh một người nghệ sĩ Phùng bắt gặp được cảnh “đắt trời cho” vào một buổi sớm mai. Từ xa xa, trong từng làn sương mờ ảo, huyền diệu, bóng một con thuyền thấp thoáng tiến vào bờ, trong khoảnh khắc ấy, ánh mặt trời bình minh mang màu hồng nhạt đang chiếu vào con thuyền tạo nên vẻ toàn bích. Trong con mắt của người nghệ sĩ khát khao đi tìm kiếm cái đẹp lúc ấy thật hạnh phúc khi được ngắm nhìn một vẻ đẹp “xưa nay chưa từng có”. Cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, hài hoà trong vẻ đẹp lao động của người ngư phủ, cả sắc màu, ánh sáng, đường nét đều hoàn mỹ. Trước bức tranh tuyệt đẹp ấy, người nghệ sĩ đã vô cùng rung động, vô cùng cảm xúc và vẫn không quên nhiệm vụ của mình, bấm máy ảnh liên tục ghi lại khoảnh khắc ấy. Đây là một bức tranh đẹp mà tạo hóa đã ban tặng, những không phải lúc nào cũng có thể bắt gặp được, một người nghệ sĩ như Phùng phải mải miết mà tìm kiếm, phải đi nhiều nơi, đến nhiều chỗ, phải lao động nghiêm túc trên hành trình đi tìm cái đẹp ấy mới có thể gặp gỡ và tạo ra sản phẩm đáng tự hào.

Niềm vui chưa được bao lâu thì Phùng lại đón nhận một sự thật sững sờ đằng sau bức ảnh ấy. Trước mắt người nghệ sĩ xuất hiện một người đàn bà không mấy xinh đẹp, da mặt thì bị rỗ, khuôn mặt cúi xuống, bước từng bước đi trong vẻ cam chịu. Đi theo sau là một người đàn ông cao to, vẻ mặt tức giận, rất hùng hổ, mũi đỏ gay. Người đàn ông ấy dáng những trận đòn tới tấp bằng chiếc thắt lưng trên tay ông ta vào người đàn bà. Lúc ấy, người đàn bà kia vẫn không nói một lời, lẳng lặng chịu đòn roi. Phùng bàng hoàng, há hốc mồm nhìn trong kinh ngạc, trái tim lúc ấy như ” chết lặng”. Phùng lúc này mới nhận ra rằng hiện thực tàn nhẫn hơn ta tưởng, đằng sau cái đẹp mà mới mấy phút trước đây Phùng còn không ngớt lời ngợi khen là cả một câu chuyện thương tâm về bạo lực gia đình. Cuộc sống vốn chẳng hề hoàn mỹ như ai đó vẫn tưởng, trong cái tốt còn cả những cái xấu, đúng – sai chẳng thể rạch ròi. Bởi thế, đừng vội vã nhìn vẻ bề ngoài mà đánh giá, hãy đi sâu, hiểu kỹ để thấy được những mảng màu khác nhau trong đời sống.

Không thể cầm lòng trước hành động tàn nhẫn và sai trái ấy, Phùng đã vội chạy tới cần ngăn. Bất bình trước cảnh bạo lực tàn nhẫn, mong muốn được giúp đỡ người đàn bà giải thoát khỏi cuộc sống như địa ngục, vì vậy dù đã hoàn thành xong nhiệm vụ được giao, Phùng vẫn quyết định ở lại để cùng Đẩu giúp đỡ người đàn bà.

Tại tòa án huyện, người đàn bà khốn khổ trạc vào tuổi bốn mươi kia xuất hiện trong vẻ lúng túng và sợ hãi. Chị ta ngồi nơi mép ghế, lạ lẫm với mọi thứ vì vốn người đàn bà ấy chỉ quen với cảnh sông nước, thuyền chài. Người đàn bà ấy lặng lẽ, vẻ mặt đầy bình yên như chưa hề có chuyện gì xảy ra trước đó, có lẽ, nêu không có cuộc gặp gỡ này, chẳng ai có thể biết hết vẻ đẹp trong con người ấy.

Chị vốn là con của một gia đình có điều kiện ở phố, ngày xưa vì một trận đậu mùa mà để lại trên khuôn mặt chị những vết rỗ xấu xí. Từ khi lấy người đàn ông hàng chài, cuộc sống nghèo khổ cứ mãi đeo bám. Trên con thuyền chật chội của sông nước, hai vợ chồng và chín mười người con bám víu lấy nhau trong khổ cực, túng quẫn. Chồng chị vốn là một người hiền lành ít nói nhưng cũng vì sự túng thiếu mà đâm ra cộc cằn, đổi nết. Khi nghe chánh án Đẩu khuyên chị bỏ người chồng tàn nhẫn đi. Chị không hề chấp nhận. Điều nghịch lý là tại sao sống với một người đàn ông bạo lực như thế nhưng chị lại không chịu bỏ chồng? Còn nguyên nhân gì sâu xa khác?

Khi nghe người đàn bà ấy nói về chồng, về những lý giải thấu tình ta mới thấy hết được những nghĩ suy đầy tốt đẹp nơi chị. Chị là người hiểu cuộc sống của mình, hiểu lẽ đời và suy nghĩ đầy chín chắn, sâu sắc. Với chị, việc bỏ chồng là điều không thể, bởi cuộc sống trên thuyền, ngày bình thường thì còn gắng được nhưng những ngày mưa gió, bão giông nào thể thiếu bàn tay người đàn ông chèo chống. Thứ hai, mình chị không thể nào đủ sức để nuôi chín mười đứa con thơ dại, cho chúng có ái ăn cái mặc. Chị có thể thiếu chồng nhưng con cái làm sao có thể vắng đi sự chăm sóc, lắng lo của người cha. Và thứ ba, chị luôn nhớ đến những phút giây hạnh phúc bên gia đình nhỏ, quây quần bên bữa cơm, dù ít ỏi nhưng đó là những khoảnh khắc mà chị trân trọng, giữ gìn, nó xoa dịu hết tất thảy những khổ đau, xót xa mà chị phải gánh chịu. Người đàn bà tội nghiệp ấy đâu có nghĩ gì đến cho mình, chị chỉ cần thấy con hạnh phúc, ấm êm, chị chỉ cần những phút giây bình an giản đơn như thế.

Chị là người phụ nữ yêu con và cũng rất mực thương chồng. Dù ai đó nói gì về chồng chị thì chị vẫn thấy được những ưu điểm nơi chồng. Chị sẵn sàng bao dung và thứ tha cho lỗi lầm của người đàn ông ấy. Sâu thẳm nơi đáy lòng của người đàn bà ấy là tình thương con bao la, chị hy sinh cả bản thân mình để đánh đổi cho con một gia đình trọn vẹn, chị sợ những trận đòn roi tàn nhẫn từ bố sẽ làm vấy bẩn tâm hồn non nớt của các con nên chị đã cầu xin người chồng mang mình lên bờ để đánh, gửi Phát về sống với ông ngoại. Chị là đại diện đẹp đẽ của những người phụ nữ Việt Nam, yêu thương, nhân hậu và bản lĩnh, dù nhỏ bé, dù nghèo khổ, lam lũ những ánh lên những vẻ đẹp của tâm hồn đầy đáng quý, đáng được ngợi ca.

Sâu phiên xử ấy, Phùng đã vỡ lẽ ra hơn nhiều điều trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Đối với cuộc sống cần có cái nhìn đa chiều hơn, sâu sắc hơn. Đối với nghệ thuật muốn đạt đến sự chân chính phải phục vụ con người, phải gắn với hiện thực đời sống.

Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, lối kể chuyện đầy bất ngờ, hấp dẫn cùng hành văn chiêm nghiệm sâu sắc Nguyễn Minh Châu đã mang đến cho người thưởng thức những cảm xúc đầy mới mẻ mà ta chưa từng có được.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 8

Nghệ thuật và hiện thực luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, một tác phẩm chân chính muốn toả sáng phải có sự hòa quyện với vẻ đẹp của cuộc sống chân thực. Nhà văn Nam Cao từng nói: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”. Nghệ thuật là lĩnh vực của sự sáng tạo mới mẻ nhưng phải gắn với con người thì mới giữ nguyên được giá trị chuẩn mực vốn có. Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một bức tranh hiện thực đầy màu sắc, ẩn sau đó chứa đựng cả câu chuyện về số phận, cuộc đời con người. Tác giả đã nhìn cuộc sống bằng đôi mắt đa diện, nhiều chiều, phản ánh đúng bản chất thật sau vẻ đẹp hoà nhoáng bên ngoài của hiện tượng.

Xem thêm:  Soạn bài Tổng kết về từ vựng (tiếp theo) ngắn nhất

Nguyễn Minh Châu quê ở xã Quỳnh Hải (nay là Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm hai mươi tuổi ông gia nhập quân đội cho đến năm 1962 thì chuyển sang con đường sáng tác văn học. Trước thập kỷ 80 ngòi bút của ông thiên về tính sử thi hào hùng, lãng mạn với những tác phẩm tiêu biểu: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972),… Cho đến những năm 80 đổ về sau, Nguyễn Minh Châu tập trung nghiên cứu về cuộc sống nhân dân, những tác phẩm của ông đều lấy cảm hứng từ các vấn đề đạo đức và triết lý nhân sinh, đặc sắc với những truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Cỏ lau (1989),… Chiếc thuyền ngoài xa được ông sáng tác năm 1987, kể về chuyến đi công tác của người nhiếp ảnh gia và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về cái đẹp và cuộc đời. Có thể nói Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút xuất sắc, là nhà “mở đường tinh anh” cho nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm văn học có tình huống truyện hết sức độc đáo, cuốn hút người đọc ngay từ những câu văn đầu tiên. Có thể nói tình huống truyện chính là chiếc chìa khoá để vận hành cả cốt truyện, là điểm tựa để người đọc khám phá trọn vẹn một tác phẩm văn xuôi. Tình huống truyện chính là những sự kiện éo le, bất ngờ, mới lạ,… Là điểm nhấn then chốt hấp dẫn người đọc, nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng tình huống truyện là “tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, sự kiện nổi bật ấy có thể là bước ngoặt thay đổi nhận thức,số phận của cả một đời người. Tình huống truyện cũng là khoảnh khắc mà ở đó nhận vật bộc lộ rõ tính cách, bản chất của mình từ đó chủ đề tư tưởng của truyện được thắp sáng. Bằng tài năng và phong cách nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống truyện nhận thức đầy bất ngờ và chứa đựng những nghịch lý cuộc đời, đó chính là hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.

Vào một buổi sáng tinh mơ, trời đầy sương mù, những hạt mưa nhỏ lác đác rơi, Phùng vẫn tiếp tục công việc “phục kích” để tìm cho ra một bức ảnh chiếc thuyền đánh cá thu lưới khi bình minh. Người nghệ sĩ đã bỏ ra nhiều công sức nhưng chưa có một bức ảnh nào thật đặc sắc, mới lạ để in trong lịch tết năm sau. Trong lúc đang lúi húi thay phim, lúc ngẩng lên anh đã chứng kiến một chuyện hơi lạ, một cảnh sắc đẹp ngỡ ngàng làm cho trái tim người nghệ sĩ dường như rung động mãnh liệt đó là “một chiếc thuyền lưới vó” đang trèo thẳng đến trước mặt anh. Cả một cuộc đời làm nghệ thuật có lẽ chưa bao giờ Phùng được trông thấy một cảnh “đắt” trời cho như thế, một cảnh sắc được tác giả miêu tả “đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Mũi thuyền ẩn hiện, loè nhoè trong bầu sương mù trắng xoá có pha “ đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, trên thuyền là những bóng người ngồi im phăng phắc như tượng sáp. Tất cả khung cảnh ấy đang tiến đến ngày một gần như “cánh của con dơi”, bức tranh hài hoà từ đường nét đến ánh sáng và mang một vẻ đẹp “thực đơn giản và toàn bích”. Là một người nghệ sĩ với tâm hồn nhạy cảm, đứng trước cảnh sắc tuyệt mỹ ấy Phùng bỗng thấy bối rối, trong trái tim anh “như có cái gì bóp thắt lại”. Dường như cảm xúc hạnh phúc đang dâng trào mãnh liệt, trong khoảnh khắc trong ngần ấy người nghệ sĩ đã nhận ra cái chân – thiện – mỹ của cuộc đời ngay trước mắt mình. Cái đẹp phải chăng là đạo đức ? Chẳng cần lựa chọn hay xê dịch gì nữa, Phùng đưa mắt ảnh bấm “liên thanh” như sợ cảnh sắc tuyệt mỹ kia sẽ tan biến trong phút giây.

Nghịch lý cuộc đời bắt đầu từ đây, khi chiếc thuyền tiến gần vào bờ, hình ảnh một cặp vợ chồng đang rời thuyền, họ lội qua một quãng bờ phá, nước ngập tới tận đầu gối. Trong giây lát tiếng người đàn ông cất lên văng vẳng quát tháo những đứa con đang ở trên thuyền. Hình ảnh cặp vợ chồng lam lũ bước ra từ chiếc thuyền đẹp như thiên đường, người chồng cao to, thô lỗ, vẻ mặt dữ tợn, còn người đàn bà khuôn mặt thô kệch toát lên đầy sự mệt mỏi. Chỉ bằng một vài câu văn miêu tả ngoại hình tác giả phần nào đã khiến cho người đọc vỡ mộng, đằng sau vẻ hào nhoáng kia của chiếc thuyền thì con người lại hiện ra chân thực, chẳng hề mang vẻ đẹp hoa mỹ nào. Nhưng nghiệt ngã hơn chính là cảnh bạo hành vợ của gã đàn ông thô bạo kia, hắn rút ra “một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa”, chẳng ai nói với nhau lời nào, hắn trút cơn giận như lửa cháy dùng hết sức lực quật tới tất vào lưng người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng hộc, răng nghiến ken két. Mỗi một nhát quất xuống hắn lại cất lên những câu chửi nguyền rủa bằng cái giọng “rên rỉ, đau đớn”: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!” Người đàn bà vẫn ngồi im “cam chịu, nhẫn nhục” không một lời van xin hay oán trách, chẳng chống trả cũng không hề chạy trốn. Sự việc xảy đến quá nhanh, quá bất ngờ đến nỗi nghệ sĩ Phùng không thể tin vào chuyện gì đang diễn ra trước mắt. Anh bàng hoàng, sửng sốt trong mấy phút đầu chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn”. Thằng Phác từ đâu lao đến nhanh hơn cả mũi tên, giật lấy chiếc dây lưng quất vào “tấm ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của cha nó. Cảnh tượng người chồng đánh đập vợ dã man, người vợ cam chịu, đứa con đánh lại cha trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp của con thuyền ngư phủ. Tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực cuộc sống ẩn sau vẻ đẹp hào nhoáng bằng một hiện thực nghiệt ngã, nếu chỉ nhìn sự vật ở bên ngoài chúng ta sẽ không thể nhìn thấu hết bản chất của nó, không thể đánh giá một cách toàn diện hiện tượng. Vẻ đẹp của nghệ thuật chưa đủ sức mạnh để làm nên phẩm chất đạo đức, nhân cách của một con người.

“Ngọc lành có vết, việc đời đa đoan” hiện thực không đơn giản, một chiều mà luôn tồn tại với nhiều mảng màu đối lập chẳng thể giải đáp. Nghịch lý không dừng lại ở đó mà tiếp tục được tác giả đi sâu vào khai thác trong nhân vật người đàn bà hàng chài. Người phụ nữ đã trạc ngoài bốn mươi, dáng người đặc trưng của miền biển, cao lớn với những “đường nét thô kệch”. Vẻ ngoài xấu xí, mặt chằng chịt rỗ sau một bận lên đậu mùa, sắc mặt tái bệch đi sau một đêm dài thức trắng. Xuất thân trong một gia đình khá giả, nhưng vì xấu nên không ai lấy. Lúc đầu khi được chánh án Đẩu mời lên toà án, người đàn bà lúng túng, sợ sệt, tìm đến một chỗ để ngồi. Khi được chánh án khuyên bỏ chồng, bà ta lo lắng, sợ hãi vô cùng van xin toà: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Thật là kỳ lạ, một gã chồng vũ phu suốt ngày đánh đập “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” thì có gì đáng để bà ta phải lưu luyến mà không bỏ quách đi. Một người chồng một khi dám xuống tay đánh vợ và chửi rủa như thế, thì còn thiết tha hạnh phúc gì nữa, vậy mà người đàn bà nhất định không chịu bỏ đi. Nếu chỉ nhìn vào những gì đang thấy trước mắt, thì người phụ nữ này quả thật là rất đáng trách, trách vì đã để bản thân mình chịu nỗi đau thể xác lẫn tinh thần, trách vì sự kém cỏi hèn nhát của bản thân.

Thế nhưng không, cuộc đời vốn dĩ chẳng phô bày ra trước mắt ta những uẩn khúc nghiệt ngã. Đằng sau vẻ nhút nhát của người đàn bà làng chài là cả một sự hy sinh cao cả vì đàn con, vì gia đình yên ấm, bà thấu hiểu được nỗi khổ của người chồng. Qua lời kể của bà, người chồng khi còn trẻ tuy cục tính nhưng hiền lành, bà mang ơn ông vì đã cứu lấy danh dự mình, vẫn cưới dù biết bà có mang với người đàn ông khác. Hoàn cảnh đã nghèo khó, lại thêm đông con, gánh nặng cơm áo như đè nặng hết lên vai người chồng. Những khi trời đổ giông bão cả nhà chỉ ăn “cây xương rồng luộc chấm muối”, người đàn bà chép miệng như đang “nhìn suốt cả đời mình”, bà nhận hết lỗi về mình “giá tôi đẻ ít đi”. Quả là một người phụ nữ đáng trân trọng dù bản thân có chịu đựng bao khổ nhục cũng chưa từng oán thán, bà luôn nhìn thấy nỗi khổ của người khác để thấu hiểu, bao dung cho lỗi lầm của họ. Quanh năm lênh đênh trên biển – nguồn sống duy nhất của cả gia đình từng ấy miệng ăn, người đàn bà nhẫn nhục vì thương con, chúng còn thơ dại nếu không có bàn tay chăm sóc của người mẹ sẽ ra sao? Liệu người đàn ông khô khan, thô bạo kia có dạy dỗ, quan tâm, bảo ban được chúng? Phụ nữ làng chài cần có người đàn ông chèo lái con thuyền mỗi khi trời đổ phong ba, họ sức yếu vai mềm chẳng thể một mình chống đỡ lại với bão táp ngoài biển khơi, “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ” cho nên họ “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi duy nhất của người phụ nữ là khi nhìn đàn con “chúng nó được ăn no”, ngay cả khi vui sướng hay hạnh phúc thì cũng là vì nghĩ cho con chưa một lần nào nghĩ cho bản thân mình. Vẻ mặt người đàn bà bừng sáng lên như một nụ cười khi nghĩ đến những lúc vợ chồng con cái sống vui vẻ, hòa thuận. Dường như tình thương con cũng như nỗi đau, sự thấu hiểu về những thăng trầm của lẽ đời “mụ” chẳng bao giờ bộc lộ ra ngoài mà giấu kín trong trái tim mình. Vẻ đẹp của đàn bà hàng chài đã gợi cho ta bao suy nghĩ về cuộc đời, không thể nhìn sự việc một cách phiến diện, một chiều mà phải đặt nó trong một khía cạnh toàn diện để đánh giá, suy xét. Nghệ thuật phải là một tấm gương phản chiếu hiện thực đấy mới là nghệ thuật chân chính.

Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, hình ảnh biểu trưng “chiếc thuyền ngoài xa” là nghệ thuật ẩn dụ cho kiếp người đơn độc, lênh đênh trên biển lớn cuộc đời. Nghệ thuật tự sự độc đáo, người trần thuật là Phùng một nghệ sĩ dày dặn kinh nghiệm, từng trải trên chiến trường. Ngôn ngữ truyện chân thực, giàu hình ảnh sáng tạo, hấp dẫn người đọc.

Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm văn học xuất sắc của Nguyễn Minh Châu, để lại cho chúng ta những bài học quý giá về triết lý nhân sinh của cuộc đời, biết đồng cảm, sẻ chia với những mảnh đời khốn khó. Từ tình huống truyện có ý nghĩa như một nút thắt để người đọc khám phá về sự thật cuộc đời, từ những thay đổi trong nhận thức con người, tác giả đã chỉ rõ mối liên hệ giữa nghệ thuật và hiện thực. Nhà văn cũng như thư ký của thời đại, phải có trách nhiệm tái hiện cuộc sống trong ngòi bút nghệ thuật của mình.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 9

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.

Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.

Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.

Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.

Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?

Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ám ảnh rất nhiều người nữa.

Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.

Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 10

Nguyễn Minh Châu: “Là một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học”. Trước cách mạng sáng tác của ông thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, sau cách mạng bằng sự tìm tòi, đổi mới, ngòi bút của ông hướng hẳn vào những vấn đề thế sự, đời tư, đi sâu vào cuộc sống của con người. Chiếc thuyền ngoài xa khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống muôn mặt đời thường. Tác phẩm mang đặc trưng phong cách sáng tác của ông sau cách mạng.

Mở đầu tác phẩm là một khung cảnh tuyệt mĩ, là cảnh đắt trời cho với chiếc thuyền mơ mộng, thanh bình trong khung cảnh bầu trời sương lãng đãng, lại pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Cùng với đó là vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ. Quả thực đây là bức họa kì diệu, mĩ lệ mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Khung cảnh này là khung cảnh mà bất cứ người nghệ sĩ nào cũng mong muốn bắt gặp một lần trong đời làm nghệ thuật của mình. Trước khung cảnh ấy, sao người nghệ sĩ có thể không rung động, Phùng cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc, gột rửa và một niềm hạnh phúc trào dâng trong lòng. Phùng vừa hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, nhưng hơn cả là Phùng đã tìm thấy tuyệt tác nghệ thuật.

Nhưng đằng sau bức tranh tuyệt đẹp đó là sự thật đau lòng đến đáng kinh ngạc. Hiện thực trần trụi mở ra trước mắt Phùng, người đàn bà xấu xí, mặt rỗ, đi sau là người đàn ông cao lớn, dữ dằn, tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền… Thì ra đằng sau cái đẹp tuyệt mĩ mà Phùng vừa mới phát hiện lại là khung cảnh vô cùng tàn nhẫn, nơi mà bạo lực gia đình diễn ra hết sức khủng khiếp. Người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục lẳng lặng đi trước, còn người đàn ông đi phía sau, không nói một lời, nhưng bỗng nhiên trở nên hùng hổ, mặt mũi đỏ gay dùng ngay chiếc thắt lưng vụt tới tấp vào người vợ. Trước khung cảnh ấy người nghệ sĩ Phùng“kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng”… Khung cảnh ấy đã cho nghệ sĩ Phùng nhận thức đầy đủ và chân thực hơn về cuộc sống: cuộc sống vốn không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất nhiều nghịch lí, trong cuộc sống luôn tồn tại cả xấu – tốt, đúng – sai, rồng phượng, rắn rết. Bởi vậy, khi nhìn nhận bất cứ vấn đề nào cũng phải nhìn sâu, nhìn kĩ, đừng vội vã đánh giá sự vật hiện tượng qua vẻ bề ngoài của nó.

Nếu như đầu tác phẩm người đàn bà hàng chài mới chỉ hiện lên ở những nét vẽ hết sức sơ xài, thì trong cuộc gặp gỡ ở tòa án huyện chân dung và số phận của chị đã được thể hiện rõ nét hơn. Người đàn bà hàng chài xuất hiện tại tòa án huyện là do anh đã vào can ngăn người chồng đánh lại chị. Tuy nhiên anh đã bị thương, sau lần đó, anh quyết định nhờ đến sự can thiệp của Đẩu – người đại diện cho công lí, pháp luật để giúp đỡ người phụ nữ khốn khổ này.

Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, thân hình thô kệch, cao lớn, khuôn mặt xấu xí, lại bị rỗ mặt do một trận ốm. Người đàn bà xuất hiện trong tư thế sợ sệt, lúng túng, vì vốn quen với môi trường sông nước, lạ lẫm khi bước vào căn phòng toàn bàn ghế, giấy tờ…. Chị ngồi thu mình ở mép ghế, lo lắng, sợ hãi. Chị sợ sự xuất hiện của mình gây phiền hà, vướng víu cho người khác. Trên gương mặt chị không biểu lộ bất cứ điều gì, bình yên và phẳng lặng, nếu ta không có tìm hiểu có lẽ sẽ không bao giờ biết hết được về người đàn bà này.

Thật nhẹ nhàng và bình thản chị kể về câu chuyện cuộc đời mình. Chị vốn được sinh ra trong một gia đình khá giả ở phố buôn bán những vật dụng phục vụ nghề chài lưới nhưng lại không được ưu ái về nhan sắc, sau một trận đậu mùa mặt bị rỗ chằng chịt. Chị gặp gỡ và lấy được người chồng hiện tại. Cuộc sống gia đình bắt đầu rơi vào bi kịch khi họ sinh nhiều con, cuộc sống trên thuyền chật chội, bấp bênh, họ rơi vào cảnh cùng túng, quẫn bách. Anh chồng vốn hiền lành trở nên cục cằn, dữ dằn, thường lôi chị ra đánh. Chị chính là nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nhưng đằng sau vẻ ngoài xấu xí ấy, còn là một người có nội tâm sâu sắc, một tâm hồn đẹp, nhân hậu. Trước hết người đàn bà hàng chài là một người thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Chị không muốn bỏ chồng vì thứ nhất chị làm nghệ hàng chài, trên một chiếc thuyền của gia đình thì không thể thiếu vai trò của người đàn ông, nhất là khi biển động. Thứ hai một mình chị không thể gồng hành gánh nặng mưu sinh cho chín mười người con. Đối với chị hạnh phúc là khi được nhìn chúng ăn no. Thứ ba, cũng có đôi lúc trên thuyền vợ chồng chị cùng con cái quây quần, hạnh phúc, dù ít ỏi nhưng nó cũng phần nào xoa dịu nỗi đau về thể xác sau mỗi lần bị chồng đánh.

Không chỉ vậy, chị còn là người có tấm lòng nhân hậu, bao dung. Tất cả mọi người đều đề xuất giải pháp từ chối, tẩy chay gã đàn ông, riêng chị thì không. Chị sẵn sàng đứng im chịu trận, không chống trả, không bỏ chạy. Rất thấu hiểu chồng, thông cảm cho chồng. Và đẹp đẽ nhất chính là đức hi sinh, tình yêu thương con sâu sắc. Chị sẵn sàng chịu những trận đòi ròn của chồng để đàn con được ăn no, ngủ yên. Lo thằng Phác sẽ có những hành động sai trái, chị gửi nó lên ở với ông ngoại, để nó không nhìn thấy bố đánh mẹ, để nó khỏi đau lòng và không có những hành động trái với luân thường đạo lí. Đối với chị niềm vui, niềm hạnh phúc rất đơn giản, là khi gia đình hòa thuận, khi nhìn thấy lũ trẻ được ăn no. Chị yêu con, thương con, mong con khôn lớn nhưng không thể bảo vệ được tâm hồn của các con. Người đàn bà hàng chài hiện ra là hình ảnh đại diện cho những con người vô danh, nghèo khổ, lam lũ nhưng lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý khiến họ trở nên không hề nhỏ bé mà là hiện thân của những gì đẹp đẽ nhất.

Bên cạnh người đàn bà hàng chài, ta cũng không thể không nhắc đến Phùng, một người nghệ sĩ tài hoa, nhạy cảm trước cái đẹp. Khi phát hiện ra cảnh đắt trời cho, trong lòng anh xúc cảm trào dâng: rung động, tâm hồn được thanh lọc, hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, lôi máy ảnh ra bấm liên thanh…

Không chỉ vậy anh còn là người có trách nhiệm, có tấm lòng với cuộc đời và con người. Khi chứng kiến cảnh bạo hành, anh sẵn sàng vứt chiếc máy ảnh xuống để giúp đỡ người phụ nữ tội nghiệp. Lần thứ hai can thiệp anh đã bị thương và vì vẫn còn lo lắng cho người phụ nữ kia anh đã nhờ đến sự giúp đỡ của chánh tòa án huyện. Ngoài ra, anh còn là người nghệ sĩ luôn trăn trở với thiên chức nghề nghiệp của mình. Anh phát hiện ra cái đẹp tuyệt mĩ, nhưng đằng sau cái đẹp lại là cái xấu, là hiện thực trần trụi. Chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh cuộc đời khi nhìn ở xa, khi quan sát với cái nhìn hời hợt. Bởi vậy, cần nhìn nhận con người, sự việc thấu đáo, toàn diện. Cùng với đó là bức tranh xuất hiện cuối tác phẩm, đem đến cho người nghệ sĩ Phùng một chiêm nghiệm khác chính là nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, không được xa rời cuộc sống và phải quay trở về để phục vụ cuộc sống.

Với sự cách tân đổi mới trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật Nguyễn Minh Châu đã tạo nên tác phẩm xuất sắc. Không lấy những người hùng làm nhân vật trung tâm mà đi sâu tìm tòi, phát hiện vẻ đẹp ở những con người bình thường. Tác phẩm cũng là những đúc kết thấu đáo về nghệ thuật và con người: về con người, phải nhìn nhận đa chiều, đa diện, không nên đánh giá phiến diện, một chiều; về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính phải gắn liền với cuộc đời, xuất phát từ cuộc đời và quay trở lại phục vụ cho cuộc đời.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Văn mẫu