/tmp/osoky.jpg
Bài văn Cảm nhận bốn câu thơ đầu đoạn trích Cảnh ngày xuân gồm dàn ý chi tiết, 2 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 9.
Đề bài: Cảm nhận bốn câu thơ đầu đoạn trích “Cảnh ngày xuân” trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Mùa xuân từ lâu đã trở thành đối tượng thẩm mĩ, khơi nguồn cảm hứng cho biết bao nhiêu văn nhân, tài tử chấp bút để sáng tác nên những thi phẩm tuyệt vời viết về mùa xuân. Trong văn học trung đại Việt Nam, ta có thể kể đến một số tác phẩm như: “Cáo tật thị chúng” của thiền sư Mãn Giác, “Cuối xuân tức sự” của Nguyễn Trãi, “Chơi xuân kẻo hết” của Nguyễn Công Trứ… Và cũng góp một tiếng thơ hay về một mùa khởi đầu của một năm ấy chúng ta không thể không nhắc tới Nguyễn Du trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”. Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, 28 chữ cái, nhà thơ đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi thắm, giàu sức xuân:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu vừa có sức gợi về thời gian, lại vừa có sức gợi về không gian. Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa. Cả mùa xuân có chín mươi ngày thì nay đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhè nhẹ, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi. Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn, dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận trải dài ra tít tắp. Động từ “tận” làm cho không gian mùa xuân như đang giãn nở, ngày càng mở rộng ra biên độ và bao trùm cả không gian xuân là một màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ. Biện pháp đảo ngữ có tác dụng tô đậm thêm và làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân.
Ở hai câu thơ cuối, nhà thơ đã vận dụng khéo léo, tài tình từ hai câu thơ cổ bên Trung Quốc để viết nên những vần thơ của mình:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa.
Nguyễn Du đã dùng “cỏ non” thay cho “cỏ thơm” (phương thảo) để tô đậm về sắc màu của cỏ. Màu “cỏ non” là màu xanh nhạt, gợi nên sự tơ non, phát triển, giàu sự sống của cảnh vật thiên nhiên. Dưới ánh sáng dịu nhẹ của mùa xuân, cỏ cây như đâm trồi, nảy nộc, mang một màu xanh non bất tận. Trên cái phông nền bức tranh ấy, điểm xuyết màu trắng của những bông hoa lê. Và cái màu sắc trắng ấy sau này cũng đã xuất hiện trong thơ của Tố Hữu trong bài thơ “Theo chân Bác”:
“Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ…”
Hay trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu cũng đã từng viết:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng…”
Tuy nhiên, nếu như trong thơ Tố Hữu, sắc trắng của hoa mơ là một gam màu chủ đạo, bao trùm lên cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân thì trong câu thơ của Nguyễn Du, màu sắc trắng của hoa lê chỉ “điểm” vài nét vào nền xanh của cỏ cây. Chính chữ “trắng” và nghệ thuật đảo là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Du. Chữ “điểm” gợi cảnh động chứ không tĩnh, như có bàn tay của người họa sĩ – thi si hay bàn tay tài hoa của tạo hóa đang vẽ nên thơ, nên họa. Tất cả đều tươi mát, lặng lẽ, thanh tao, căng tràn sức xuân.
Tóm lại, chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, cô đúc nhưng dưới ngòi bút và cách miêu tả thần tình, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh xuân tinh khôi, trong trẻo, thanh khiết và giàu sức sống, mang đậm hơi thở của hồn xuân đất Việt. Đoạn thơ rất tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh độc đáo của nhà thơ.
Trong văn học trung đại viết về xuân có không ít câu thơ hay và đặc sắc như bài thơ Mai của Nguyễn Trãi
Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi,
Ưa mày vì tiết sạch hơn người.
Gác đông ắt đã từng làm khách,
Há những Bô tiên kết bạn chơi.
Nhưng có lẽ chưa có bài thơ nào bức tranh thiên nhiên mùa xuân lại được miêu tả đẹp đẽ, tinh khiết, trong lành như trong thơ Nguyễn Du. Chỉ với bốn câu thơ đầu trong trích đoạn “Cảnh ngày xuân” đại thi hào đã mở ra trước mắt bạn đọc một không gian thiên nhiên đẹp đẽ, tuyệt mĩ.
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Câu thơ mở ra bằng hình ảnh những con én rộn ràng bay giữa bầu trời, tạo nên một không gian bao la, rộng lớn. Hình ảnh mùa xuân được làm rõ nét hơn ở câu thơ thứ hai: thiều quang – ánh sáng mùa xuân rực rỡ đẹp đẽ nhất. Cách tính thời gian của Nguyễn Du cũng thật đặc biệt, mùa xuân đã “chín chục đã ngoài sáu mươi” ấy là khi mùa xuân đã bước sang tháng thứ ba, ánh nắng trở nên rực rỡ ấm áp hơn. Bởi vậy làm cho không gian tràn ngập ánh sáng. Câu thơ không chỉ miêu tả khung cảnh mà đằng sau đó còn thể hiện xúc cảm của con người. Hình ảnh “con én đưa thoi” vừa gợi ra không gian bao la, rộng lớn vừa gợi lên sự chảy trôi của thời gian. Mùa xuân ấm áp rực rỡ trôi qua quá nhanh khiến con người không khỏi bâng khuâng tiếc nuối. Cảm quan thời gian của ông thật mới mẻ, hiện đại, không giống như các nhà thơ trung đại khác: “Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân đáo bách hoa khai”, mà tựa như cảm nhận của thi sĩ Xuân Diệu: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân đã già”. Đó là nét độc đáo mới mẻ trong sáng tác của ông, tuy có khác về hình thức biểu hiện nhưng đều cho thấy sự luyến tiếc thời gian mùa xuân – tuổi trẻ, trân trọng, nâng niu từng phút giây đó.
Để hoàn chỉnh bức tranh mùa xuân, Nguyễn Du dùng nét bút chấm phá phác họa lên bực tranh tuyệt đẹp, hài hòa về màu sắc:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lên trắng điểm một vài bông hoa.
Làm nền cho bức tranh mùa xuân là thảm cỏ tươi non, mơn mởn trải dài tít tắp đến tận chân trời. Từ đó làm cho không gian bầu trời mà không gian mặt đất cũng trở nên bao la, khoáng đạt hơn. Trên nền màu xanh non, ngập đầy sức sống ấy hiện lên một vài bông hoa lê mỏng manh, thanh khiết. Ở đây màu sắc bức tranh có sự hài hòa tuyệt đối, màu xanh non của cỏ kết hợp với màu trăng tinh khôi của hoa lê càng làm nổi bật hơn sức sống, sự thanh tao của những cánh hoa lê. Hơn nữa, Nguyễn Du còn tỏ ra đặc biệt tinh nhạy khi dùng động từ “điểm” khiến cho khung cảnh có thần, có hồn chứ không hề tĩnh tại. Kết hợp với đảo ngữ “trắng điểm” một lần nữa nhấn mạnh, tô đậm vào sắc trắng của hoa lê.
Đọc câu thơ của Nguyễn Du ta bất giác nhớ về câu thơ cổ của Trung Quốc:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa.
Trên cơ sở những tiếp thu về màu sắc, về không gian rộng lớn của bức tranh, Nguyễn Du đã có những sáng tạo độc đáo, khiến cho bức tranh của mình mang vẻ đẹp, mang sức sống riêng. Bức tranh trong thơ cổ nhấn mạnh hương thơm và tập trung vào gam màu xanh non của cỏ, sắc trắng của hoa chỉ là yếu tố phụ, điểm xuyến vào bức tranh ấy. Còn trong bức tranh thu của Nguyễn Du yếu tố ông đặc biệt nhấn mạnh là màu xanh non mỡ màng, tràn đầy sức sống của thiên nhiên. Sắc trắng của bông hoa lê là yếu tố làm nổi bật vẻ đẹp bức tranh. Có sự hài hòa, quyện hòa tuyệt đối giữa hai sắc màu này. Đặc biệt bức tranh của Nguyễn Du không tĩnh tại mà rất sống động, có hồn. Ông đã sử dung đảo ngữ “trắng điểm” làm cho bức tranh hiện ra vừa mang nét thanh mảnh, mềm mại, lại vừa sống động. Chính nhờ điểm này đã khiến cho bức tranh xuân của ông thành tuyệt tác trong nghệ thuật tả cảnh.
Chỉ bằng vài nét bút chấm phá, gợi tả, Nguyễn Du đã vẽ một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp. Từ đó người đọc cảm nhận được ngòi bút tài hoa, giàu chất tạo hình của thi nhân, cùng với tâm hồn con người tươi vui, phấn chấn, nhạy cảm trước cái đẹp.