/tmp/xxcsa.jpg
Nội dung bài viết
Bài văn Suy nghĩ về thân phận Thuý Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều gồm dàn ý chi tiết, 8 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 9.
Nguyễn Du được tôn vinh không chỉ đơn thuần vì tài năng mà ở tấm lòng của ông với những kiếp sống bị đày đọa, đau khổ. Trái tim nhỏ bé của nhà văn đập bởi nhịp đập của quần chúng cần lao, để mỗi ngày sống qua, mỗi cảnh trông thấy điều khiến cho nhà thơ “thêm đau đớn lòng“. Mà dù thời đại nào, hoàn cảnh nào, người đau khổ nhất trong những người đau khổ vẫn là người phụ nữ. Lòng nhân hậu của bậc thiên tài đã giúp ông hiểu sâu sắc được nỗi bất hạnh muôn đời của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thối nát, để thốt lên đầy xót xa, ai oán trong thơ của mình :
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Thuý Kiều là một trong những nhân vật có số phận như vậy. Trong Truyện Kiều của ông, nàng hiện thân cho những kiếp “hồng nhan bạc mệnh” điển hình của chế độ phong kiến xưa kia. Điều đó được thể hiện sinh động qua đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều.
Vốn sinh ra trong một gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, Thuý Kiều và Thuý Vân vừa xinh đẹp tuyệt trần vừa trong trắng ngây thơ. Một buổi chiều xuân đi tảo mộ, nàng có hai cuộc gặp gỡ đầy định mệnh. Một là số phận bi kịch của Đạm Tiên như thầm dự báo trước tương lai của Kiều, cuộc gặp sau là niềm đam mê, hạnh phúc với chàng Kim Trọng tài hoa nhất bậc. Nếu không có “tai biến bất kì” thì cuộc đời cô gái “nghiêng nước nghiêng thành” này đã chẳng có trong thơ Nguyễn Du. Trước biến cố của gia đình, nàng biết chịu đựng và hi sinh khi quyết định bán mình chuộc cha. Mặc dù đau đớn vô cùng, Kiều vẫn phải rời xa gia đình, từ bỏ mối tình đầu đẹp đẽ và trong sáng với Kim Trọng để trở thành món hàng mua bán với gã con buôn đê tiện Mã Giám Sinh.
Khi mụ mối đưa người viễn khách họ Mã tới để hỏi Kiều về làm vợ thì cuộc gặp gỡ ban đầu đã diễn ra trong đau đớn tuyệt vọng. Mã Giám Sinh xuất hiện trong buổi đến xem mặt như một kẻ bất nhân, đê tiện nhất mà chỉ ngay trong đêm hôm đó Kiều đã nhận xét với mẹ mình rất đúng về hắn:
Khác màu kẻ quý người thanh
Chẳng hay con lại mắc tay bợm già.
Khó có thể hình dung ra cuộc gặp mặt nào não nề, đớn đau hơn thế!
Tâm tình ngổn ngang, nỗi đau vì mối tình đầu tan vỡ, nỗi uất ức vì án oan mà cha và em trai phải chịu, nỗi xấu hổ, thẹn thùng khi bản thân lâm vào cảnh phải để người đàn ông lạ tới xem mặt. Hình ảnh nàng khi bước chân ra khỏi khuê phòng thật muôn vàn xót thương :
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.
Nước mắt của nàng thấm đẫm cả trang giấy, mỗi bước đi là mỗi bước xót đau. Những giọt nước mắt của tan nát, khổ đau làm quặn thắt lòng người đọc, khiên ai cũng thương thay cho thân phận nàng Kiều. Bước vào phòng khách với vẻ dè dặt, tủi hổ của người con gái khuê các :
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Hình ảnh thẹn thùng của nàng là nỗi xấu hổ của người con gái mới lớn không may rơi vào hoàn cảnh trớ trêu lại vừa là sự hổ thẹn cho thân phận bất hạnh của mình. Trước nỗi đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh không một chút mảy may thương cảm mà còn xem nàng như xem một món hàng cần mua ở chợ :
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai.
Xem xét mọi vẻ chứa đủ, hắn còn thử tài của Kiều theo kiểu của kẻ có tiền muốn mua hàng hoá xứng đáng với đồng tiền sẽ bỏ ra :
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.
Người thiếu nữ “sắc đành đòi một tài đành hoạ hai” được tên lái buôn họ Mã “đắn đo” mãi để “cân sắc cân tài”: ước lượng để sao mua được thật rẻ “món hàng” vô giá này. Chúng ta không thể không thương xót cho Kiều khi kẻ đê tiện “cò kè”, “thêm bớt” từng tí để ngã giá mua nàng với bốn trăm lượng. Kiều đau đớn thế nào khi nghĩ gã buôn thịt bán người ti tiện nhất thế gian này lại có thể làm chồng mình? Càng tan nát lòng hơn khi trong trái tim nàng in sâu hình bóng chàng Kim Trọng “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”. Bắt đầu từ đây cuộc đời nàng bước ngoặt sang một trang khác, không còn êm đềm, ngọt ngào như trước nữa.
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào số phận ai oán, bi thương của Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh’ mua Kiều. Đáng ra con người tài sắc “mười phân vẹn mười” này xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhất trong những người hạnh phúc, vậy mà xã hội phong kiến thối nát đã chà đạp phũ phàng khiến nàng phải gánh chịu khổ đau và bất hạnh trong mười năm đoạn trường cay đắng. Trái tim tràn đầy nhân ái, yêu thương của nhà thơ đã để cho Kiều trong khi quyết liệt đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc cho người phụ nữ nói chung thì cũng tố cáo sâu sắc cái xã hội lúc bấy giờ.
Đang sống trong hạnh phúc của mối tình đầu say mê, trong trắng với Kim Trọng thì bất ngờ gia đình Kiều bị vu oan, giáng họa. Không đành lòng để cho gia đình tan nát, Thuý Kiều đau đớn trao duyên cho Thuý Vân, tự nguyện bán mình để lấy tiền cứu cha và em trai. Lợi dụng tình cảnh đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh “vốn là một đứa phong tình đã quen” đánh tiếng cưới nàng về làm thiếp nhưng thực sự là hắn mua Kiều về cửa hàng thanh lâu của hắn với mụ Tú Bà ở Lâm Tri. Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” miêu tả màn kịch mua bán, qua đó “lột mặt nạ” của Mã Giám Sinh và thể hiện nỗi đau đớn ê chề, mở đầu cho đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đầy cay đắng của nàng Kiều.
Với ngòi bút sắc sảo trong miêu tả và nỗi căm ghét của nhà thơ, Nguyễn Du đã lột tả bộ mặt bỉ ổi, tàn ác, ghê tởm của bọn “buôn bán thịt người”. Trong màn kịch này, Mã Giám Sinh đóng vai chàng sinh viên Quốc Tử Giám đến để làm “lễ vấn danh”, xem mặt, dạm hỏi Thuý Kiều về làm vợ lẽ. Gã sinh viên giả hiệu “người viễn khách” mờ ám này, mù mờ từ tên họ đến quê quán. Và ngòi bút thần tình của Nguyễn Du cứ mỗi nét lại khắc hoạ rõ hơn chân dung của Mã Giám Sinh và cái bản chất con buôn ghê tởm của hắn:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy, sau tớ xôn xao
Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trong”…
…”Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Mã Giám Sinh đã “ngoại tứ tuần” mà vẫn “áo quần bảnh bao”, “mày râu nhẵn nhụi”, rõ ra một gã trai lơ. Lũ thầy, tớ chúng kéo đến nhà Kiều thật là nhốn nháo, lố lăng … và cái cử chỉ “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” đã làm rơi cái mặt nạ sinh viên, phơi bày chân tướng của một tên vô học, thô lỗ của hắn.
Nguyễn Du cứ “khách quan” miêu tả cảnh mua bán vậy mà cái bản chất thật của Mã Giám Sinh vẫn bị lột trần, phơi bày bằng hết. Dẫu được khéo léo che đậy bằng mọi thứ mánh lới xảo quyệt nhưng diện mạo, thái độ, cử chỉ, hành vi và ngôn ngữ của hắn vẫn tự tố cáo bản chất đích thực của một tên “buôn thịt bán người” đê tiện.
Trong con mắt của Mã Giám Sinh, nàng Kiều cùng với tài sắc của nàng chỉ là một món hàng rồi đây sẽ sinh lợi cho hắn. Hắn đắn đo khi “cân sắc, cân tài”, hắn “ép”, hắn “thử” tài nghệ của nàng; nhấc lên, đặt xuống, xoay vần đủ kiểu hệt như người ta mua bán một món hàng. Khi đã hoàn toàn vừa ý, bản chất con buôn của hắn vẫn còn lộ ra ở cái thái độ “tuỳ cơ dặt dìu” khi mặc cả. Bản chất đó còn được che đậy bằng những lời lẽ mĩ miều, sang trọng:
” Rằng mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Thì cuối cùng bộc lộ một cách trắng trợn và bỉ ổi nhất:
“Cò kè bớt một, thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”
Với sự mặc cả “cò kè” ti tiện, bẩn thỉu này, màn kịch “lễ vấn danh” lộ rõ thực chất là một cảnh “mua thịt bán người” một cách trắng trợn và Mã Giám Sinh hiện nguyên hình là một tên con buôn ghê tởm và đê tiện nhất.
Trong đoạn trích này, hình ảnh Thuý kiều hiện ra với tất cả những buồn khổ, xót xa, ê chề, tủi hổ. Là một cô gái tài sắc vẹn toàn, đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ, màn che, tường đong ong bướm đi về mặc ai”, lại đang ngây ngất trong hạnh phúc của mối tình đầu trong trắng thì thình lình tai hoạ ập đến, Kiều trở thành một món hàng cho bọn “buôn thịt, bán người” trao tay mua bán, cò kè, mặc cả. Tâm hồn nhạy cảm của nàng đã cảm nhận sâu sắc cảnh ngộ éo le, vừa hổ thẹn, vừa dơ dáy, vừa đau đớn, nhục nhã của mình:
” Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió, e sương,
Ngừng hoa bỗng thẹn, trông gương mặt dày”.
Kiều vừa xót xa cho mối tình của mình (nỗi mình), vừa xót xa cho gia đình (nỗi nhà), lệ rơi khôn cầm. Kiều ra với Mã Giám Sinh như cành hoa đem ra trước sương gió, cho nên ” dợn gió, e sương”, vì sương gió làm cho hoa tàn, hoa rụng. Và vì tự ví mình với hoa nên thẹn thùng khi nhìn thấy hoa, tự thấy không xứng với hoa. Đó là cái đạo đức thầm kín của Kiều. Trong khi đó mụ mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng, một đồ vật: “vén tóc, bắt tay” cho khách xem. Bắt nàng làm thơ, đánh đàn cho khách thấy. Còn Kiều thì “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”.
Trong màn kịch “lễ vấn danh” này, dưới sự “đạo diễn” của mụ mối và theo đòi hỏi, nài ép của Mã Giám Sinh, Kiều “nhất cử, nhất động” đánh đàn , làm thơ như một “cái máy”. Bán mình để chuộc cha, cứu em là hành động tự nguyện của nàng nên nàng chịu đựng và cam chịu tất cả. Qua ngòi bút của Nguyễn Du, nàng Kiều hiện lên với sự im lặng tuyệt đối mà vẫn không sao dấu được sự đau đớn, xót xa, tủi nhục, ê chề bởi nàng là người luôn có ý thức về nhân phẩm mà lại bị chà đạp lên nhân phẩm một cách nhục nhã. Kiều đau uất trước cảnh đời ngang trái, đau khi nghĩ tới”nỗi mình” – tình duyên dang dở, uất bởi “nỗi nhà” bị “vu oan giáng hoạ”, Bao trùm lên tâm trạng của Kiều là sự đau đớn, tái tê “thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”!
Phải nói, trước sau, Nguyễn Du cũng đã miêu tả cảnh bán người như là cảnh “cành hoa đem bán cho thuyến lái buôn”.
Bằng việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn du đã khắc hoạ được tính cách nhân vật, tác giả đã bóc trần bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh, qua đó lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên tài sắc, nhân phẩm của người phụ nữ đồng thời bộc lộ sự thương cảm sâu sắc bởi nỗi đau oan trái của Thúy Kiều ngay từ buổi đầu của đoạn đời đầy lưu lạc của nàng.
1. Mở bài:
– Giới thiệu đoạn trích.
– Giới thiệu hoàn cảnh của nhân vật Thúy Kiều: bán mình để chuộc cha và em trai.
2. Thân bài:
– Hình ảnh của Thúy Kiều trước khi gia đình gặp biến cố
+ Sinh ra trong gia đình thượng lưu, lương thiện, vừa xinh đẹp tuyệt trần vừa trong trắng ngây thơ.
+ Một buổi chiều xuân đi tảo mộ, nàng có hai cuộc gặp gỡ đầy định mệnh…
+ Trước biến cố của gia đình, nàng biết chịu đựng và hi sinh khi quyết định bán mình chuộc cha…
– Hình ảnh tội nghiệp của Thúy Kiều trong cuộc trao đổi, mua bán:
+ Tình cảnh tội nghiệp của Thúy Kiều:
• Nàng là một món hàng để người ta trao đổi, mua bán
• Ý thức được nhân phẩm
+ Nỗi đau đớn, tái tê:
• Buồn rầu, tủi hổ, ngại ngùng
• Ê chề trong cảm giác thẹn với lòng
• Đau đớn khi tình duyên tan vỡ…
– Tấm lòng của tác giả:
+ Khinh bỉ, căm phẫn tố cáo thế lực vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của con người.
+ Tác giả có cái nhìn cảm thông, thương cảm với số kiếp “hồng nhan bạc mệnh” của Thúy Kiều.
3. Kết bài:
– Nội dung: Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào sô phận ai oán, bi thương của Kiều.
– Nghệ thuật: Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ, dùng bút pháp tả thực để khắc họa, miêu tả.
Trong xã hội phong kiến suy tàn đầy áp bức, bất công thì người phụ nữ là nạn nhân khốn khổ nhất. Thi hào Nguyễn Du viết về họ với những lời thơ thống thiết: Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Thời nhà thơ sống, dường như bạc mệnh đã trở thành quý luật chung của thân phận phụ nữ. Cuộc đời Thúy Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn chứng minh cho quy luật ấy. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của đời nàng.
Đoạn trích nằm ở phần hai (Gia biến và lưu lạc) trong Truyện Kiều. Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa bắt bớ, khảo tra. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: Có ba trăm lạng việc này mới xong. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.
Bút pháp tả thực sắc sảo, tài tình của Nguyễn Du đã vẽ nên chân dung sống động của Mã Giám Sinh, tên lưu manh bán thịt buôn người; đồng thời thế hiện nỗi đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều – người con gái tài sắc tuyệt vời mà bị coi như một thứ hàng hóa vô tri, bị mua đi bán lại không chút xót thương. Lời tố cáo tội ác của xã hội phong kiến suy tàn và lời kêu gọi thống thiết: Hãy cứu lấy con người của Nguyễn Du ẩn chứa sau từng hình ảnh, từ ngữ trong đoạn trích này.
Cái tin Kiều muốn bán mình đã gây xôn xao dư luận cả một vùng rộng lớn vì không ai không biết đến nàng – người con gái nức tiếng tài sắc vẹn toàn. Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối dẫn đến nhà để cưới nàng làm vợ lẽ.
Một điều dễ nhận thấy trong bút pháp tả người của Nguyễn Du là khi tả những nhân vật chính diện (như chị em Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải…) thì ông dùng bút pháp ước lệ; còn tả những nhân vật phản diện (như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến…) thì ông dùng bút pháp tả thực. Qua công thức này, người đọc có thể xác định nhân vật thuộc loại nào và thái độ yêu ghét của nhà thơ ra sao. Mã Giám Sinh cũng không nằm ngoài công thức đó.
Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả dài dòng mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (viễn khách). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc: Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”. Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”. Hai câu mà chỉ cung cấp được một thông tin nhỏ là hắn mang họ Mã. Còn tất cả đều mù mờ, không rõ ràng. Giám Sinh là tên gọi chung của các sinh viên trường Quốc tử giám chứ không phải là tên riêng. Còn huyện Lâm Thanh rộng bao la, ai biết hắn ở chỗ nào, gia thế ra sao? Cách nói năng của Mã đã bộc lộ một phần về con người hắn. Hắn chẳng có chút gì là nho nhã, thanh lịch của một chàng giám sinh, hạng người có học.
Hình dáng bên ngoài của Mã có nhiều mâu thuẫn. Tuổi tác: Quá niên trạc ngoại tứ tuần. Một loạt từ phỏng đoán đứng liền nhau (quá, trạc, ngoại), từ Việt có, từ Hán có, cùng với nhịp thơ chậm, ngập ngừng càng làm tăng cảm giác khó xác định tuổi tác của Mã. Ngoại tứ tuần có thể là bốn mốt, bốn hai; mà cùng có thể là bốn lăm, bốn sáu tuổi. Thuở ấy, đàn ông ngoại tứ tuần là sắp lên lão (ngữ tuần – năm mươi tuổi). Vậy mà diện mạo và cách ăn mặc của hắn lại cố làm ra vẻ trẻ trung như trai mới lớn: Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Những từ tả thực đến mức dung tục như nhẵn nhụi, bảnh bao đã hàm ý mỉa mai, cười cợt, châm biếm của Nguyễn Du đối với nhân vật này. Rõ ràng là Mã Giám Sinh cố tìm mọi cách dùng cái mẽ ngoài hào nhoáng để che đậy bản chất bên trong, nhưng nực cười thay, cái lố lăng, kệch cỡm của hắn vẫn cứ lộ ra.
Chỉ một câu: Trước thầy sau tớ lao xao, Nguyễn Du đã tô đậm cái cung cách đi hỏi vợ lạ đời của Mã Giám Sinh. Thầy tớ hắn có khác chi một lũ lưu manh lấc cấc, hỗn hào. Riêng Mã, thái độ của hắn là hợm hĩnh, vênh váo, cậy tiền, không thèm biết đến lễ nghi, phép tắc: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng. Ghế trên là ghế dành riêng cho chủ nhà hoặc khách quý. Ngồi tót là ngồi rất nhanh, co cả hai chân lên, chẳng đợi ai mời, ai thỉnh. Sỗ sàng là ngổ ngáo, coi thường mọi người. Hành động ấy, thái độ ấy là của kẻ tiểu nhân vô học. Chỉ qua vài chi tiết, chân tướng Mã đã dần dần bộc lộ.
Khi mụ mối dẫn Kiều ra, Mã nhìn ngắm, xem xét nàng với đôi mắt của một tên lái buôn lọc lõi: Đắn đo cân sắc cân tài, Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Hắn ép Kiều phải đánh đàn, làm thơ để có cơ sở chắc chắn mà định giá nàng. Tài sắc Thúy Kiều làm cho hắn rất hài lòng: Mặn nồng một vẻ một ưa, Bằng lòng khách mới tùy cơ đặt dìu. Mã chắc mẩm trong bụng sẽ mua được món hàng vô giá, chuyến này ắt có lời to, nhưng hắn chẳng vội vàng mà còn Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. Thần tình thay là những tiếng chợ búa nôm na như cò kè, ngã giá của Nguyễn Du. Bằng mấy tiếng này, nhà thơ đã lột sạch áo mũ giám sinh giả và lời lẽ cố làm ra vẻ văn chương hoa mĩ cho đúng điệu giám sinh đi hỏi vợ: Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?… của gã lưu manh này. Trước mắt người đọc, chỉ còn lại một hiện thực trần trụi đáng sợ: Mã Giám Sinh – tên tú ông bán thịt buôn người đã lộ nguyên hình.
Đọc đoạn thơ này, chúng ta căm ghét, khinh bỉ Mã Giám Sinh bao nhiêu thì càng xót thương Thúy Kiều bấy nhiêu bởi người con gái tài sắc nhường ấy đã rơi vào nanh vuốt lũ sói lang. Nguyễn Du đã tả tâm trạng Kiều lúc bán mình hằng tất cả nỗi quằn quại, đau đớn, tưởng như nước mắt rơi, máu chảy ở đầu ngọn bút:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai.
Vẫn bút pháp ước lệ quen thuộc của Nguyễn Du khi tả những nhân vật chính diện mà ông yêu mến: lệ hoa, cúc, mai vẻ đẹp của Kiều lúc bình thường đã khiến hoa ghen, liễu hờn, nghiêng nước nghiêng thành, thì lúc này, trong cơn đau khổ đến tột cùng, nàng vẫn đẹp – vẻ đẹp làm thổn thức lòng người. Nghệ thuật đối rất chỉnh đã được nhà thơ khai thác triệt để trong những dòng thơ tả Kiều. Tình cảm chân thành của tác giả đã phá vỡ tính khuôn sáo của bút pháp cổ điển và đem lại xúc động thực sự cho người đọc. Chúng ta thương Thúy Kiều và càng căm thù cái xã hội phong kiến thối nát đã làm tan nát gia đình nàng, đẩy nàng vào chốn đoạn trường đầy chông gai, bão tố.
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một dẫn chứng chứng minh cho tài năng miêu tả tâm lí và xây dựng hình tượng nhân vật tài tình của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều một trong muôn tiếng kêu thương trước số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời, nó là lời kết án âm thầm mà không kém phần mãnh liệt cái xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những kẻ bất lương như Mã Giám Sinh; Vì lợi ích cá nhân, chúng sẵn sàng chà đạp thô bạo lên nhân phẩm. Thông điệp mà nhà thơ Nguyễn Du muốn gửi đến tất cả chúng ta là: Hãy chặn đứng những bàn tay tội ác! Hãy cứu lấy con người!
Truyện Kiều là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du, đồng thời nó cũng là tiếng lòng thổn thức, xót thương cho số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Đó không chỉ là số phận nàng Kiều mà còn là hình ảnh người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội đương thời rối ren. Trong đó đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều chính là một bức tranh lột tả trần trụi về sự bất công trong chế độ bấy giờ.
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều nằm ở phần thứ hai thuộc “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi gia đình họ Vương bị thằng bán tơ vu oán, gia đình rơi vào cảnh rối ren đau thương. Của cải bị cướp đoạt cha và em trai đều bị bắt bớ tra khảo dã man. Cái giá mà chúng đưa ra để kết thúc việc này là “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Trong phút bĩ cực chẳng còn cách nào Kiều đành phải nhắm mắt xuôi tay, gạt đi mối tình đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em.
Đoạn trích này chính là một nốt trầm buồn khởi đầu cho cuộc đời đầy bất hạnh truân chuyên của Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc.
Sau khi nghe tin Thúy Kiều bán mình chuộc cha đã gây xôn xao một vùng rộng lớn. Vì không ai là không nghe đến Thúy Kiều một người con gái tài sắc vẹn toàn. Chính vì thế Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối đến hỏi cưới nàng về làm lẽ.
Thế nhưng thay vì miêu tả cặn kẽ con người con gã họ Mã, Nguyễn Du chỉ đi vào đẵ tả chi tiết tiêu biểu từ thần thái đến trang phục cử chỉ của nhân vật. Vì thế không ai biết rõ tung tích của Mã Giám Sinh chỉ biết gã họ Mã là người “viễn khách” đến. Câu trả lời cộc lốc không đầu không đuôi phần nào đã khắc họa hết bản chất của y:
“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: “huyện Lâm Thanh cũng gần”
Bằng ấy câu hỏi nhưng cũng chỉ biết hắn họ Mã, còn tên Giám Sinh là một cái tên chỉ chung những sinh viên trường Quốc tử giám. Thế là y không nói tên, còn quê quán cũng chẳng rõ ràng cụ thể. Cách nói năng của y thể hiện hắn là một kẻ thô tục, không hề có khí chất phi phàm nho nhã của những người có học.
Đi sâu vào miêu tả ngoại hình của y, Nguyễn Du đã có những câu thơ sau:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”
Bộ mặt nhẵn nhụi, bảnh bao phần nào thể hiện sự giả dối trong con người của hắn. Từ láy “nhẵn nhịu”, “bảnh bao” mang đến cho con người cảm giác trơ trẽn, phẳng phiu. Những từ ngữ miêu tả bề ngoại cùng với tuổi “trạc ngoại tứ tuần” càng khiến người đọc cảm thấy gờn gợn. Cái tuổi sắp lên lão mà còn tỉa tót ngoại hình tô vẽ cho mình thêm trẻ trung đôi mươi càng bộc lộc bản chất thực sự của gã buôn người họ Mã.
Không chỉ dừng lại ở miêu tả ngoại hình mà cử chỉ của thầy tớ họ Mã cũng được Nguyễn Du nhắc đến “trước thầy sau tớ lao xao”.
Đó là một lũ ô hợp nhốn nháo không có trật tự, sỗ sàng vô học. Đặc biệt hành động “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” càng nhấn mạnh sự thô thiển của một kẻ vô học đội lốt học trò trường Quốc tử giám. Ghế trên vốn là vị trí trang trọng dành cho bậc cao niên thế nhưng hắn là kẻ đi hỏi vợ phận làm khách lại làm vậy thật trướng mắt và vô lễ.
Càng về sau cuộc mua bán thì Mã Giám Sinh càng thể hiện mình là một con buôn lọc lõi và từng trải:
“ Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”.
Nhưng trái với những lời lẽ hoa mỹ đó hành động của y càng thể hiện nhân cách thấp hèn cũng ngầm dự báo cho một cuộc đời đầy nước mắt của Kiều. Một loạt các cụm từ như “cò kè bớt một thêm hai”, “ngã giá”…. Chứng tỏ hắn là một con buôn lọc lõi, sành sỏi. Một kẻ buôn người đội lốt học trò trường Quốc tử giám nhưng ẩn sâu bên trong là một bản chất xấu xa, đê tiện và giả dối.
Còn Kiều một “món hàng” được mang ra trao đổi suốt cuộc trò chuyện đó nàng chỉ biết im lặng. Hình như nỗi đau đớn tủi hổ, xót xa đã xâm chiếm toàn bộ tâm trí nàng. Từ một người con gái “kín cổng cao tường” nay biến thành món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của tú bà và Mã Giám Sinh thì sao tránh khỏi đau thương cho được.
Nguyễn Du đã dùng một loạt các hình ảnh ẩn dụ tượng trưng để miêu tả tâm trạng lúc bấy giờ của Kiều như “ngại ngùng dợn gió e sương”, “nét buồn như trúc, điệu gầy như mai”…. Phần nào chúng ta cũng cảm thông trước sự đau đớn của một người con gái tài hoa mệnh bạc.
Có thể nói đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một trong những đoạn trích lấy đi nhiều nước mắt cũng như trăn trở của người đọc. Bằng bút pháp miêu tả chân thực, lối nói ẩn dụ tương trưng Nguyễn Du đã phần nào hé lộ một cuộc đời đầy biến động sóng gió của Kiều. Cũng là tiếng lòng đồng cảm xót thương cho số phận của những người phụ nữ trong xã hội đương thời đầy tai biến và đau thương.
Đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều dài 34 câu, trích trong Truyện Kiều từ câu 618 – 652. Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra tấn, tù đày, tài sản gia đình bị bọn sai nha “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Trước cảnh gia biến, Kiều đã quvết định: “Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!”.
Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu ” trâm gãy bình tan”.
Đoạn thơ tả cảnh mua bán người thời trung cổ được kể lại rất cụ thể, sống động. Người mua là Mã Giám Sinh kẻ bán là mụ mối. Người bị đem bán là Thúy Kiều. Khách viễn phương đến, mụ mối rước khách vào lầu trang. Mụ mối giục Kiểu “kíp ra” cho khách gặp. Mụ mối “vén tóc bắt tay” món hàng mình; Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”. Khi khách đã “mặn nồng một vẻ một ưu” mới hỏi giá. Mụ mối thách: “một nghìn vàng”. Hai bên “cò kè” mua bán với cái giá “vàng ngoài bốn trăm”. Cuộc mua bán xong, hai bên làm thủ tục: ‘!đưa canh thiếp” và hẹn ngày chồng tiền nhận hàng. Cuộc mua bán người lại được dùng bằng những ngôn từ sang trọng như: mua ngọc, sính nghi, đưa canh thiếp làm nghi, nạp thái vu quy. Đúng như cảnh hỏi vợ, thách cưới của các gia đình quý tộc thời xưa.
Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để “cò kè”mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp. Câu thơ “Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong” là lời bình luận cuộc mua bán, lên án đồng tiền hôi tanh, mặt trái đồng tiền trong tay bọn bất lương, bọn buôn thịt bán người.
Đoạn thơ thể hiện nghệ thuật tả người của Nguyễn Du.
Mụ mối: nhanh nhảu, đon đả hỏi họ tên, quê quán viễn khách, rồi “rước vào lầu trang”. Giục Kiều ra nhanh (kíp ra), “vén tóc bắt tay” Kiều, khôn khéo thách giá:
Mối ràng: Đáng giá nghìn vàng,
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!
Tác giả tả cử chỉ, ngôn ngữ mụ mối, làm hiện lên một loại người nhanh nhẹn, khôn khéo, giảo hoạt, kiếm ăn bằng nghề làm mối trong việc mua, bán người.
Mã Giám Sinh là “viễn khách” đến để “vấn danh” – khách đến hỏi vợ và xin cưới. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu tiếp theo là “hỏi – đáp”. Cách trả lời cộc lốc. khiếm nhã. Hai chữ “rằng” làm cho khẩu ngữ thêm thô lậu:
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh “,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Mã Giám Sinh chung lưng vốn với mụ Tú Bà mở ngôi hàng lầu xanh ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở “Lâm Thanh cũng gần”. Hắn chỉ là một tên buôn thịt bán người nhưng mập mờ khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử Giám, họ Mã, nghĩa là một trí thức phong kiến thuộc tầng lớp quý tộc. Nhân cách hé lộ dần. Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ: “Nhẵn nhụị” và “bảnh bao”là hai nét vẽ châm biếm:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Cũng “thầy”cũng “tớ”, cũng “trước” cũng “sau”, có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của ông khách viễn phương này sao mà “lao xao”chẳng có nền nếp, lễ giáo gì! Cái cử chỉ “sỗ sàng”, không biết ý tứ gì, không biết giữ lễ phép, dám đường đột leo lên ghế cao ngồi “tót”! Nếu là sinh viên trường Quốc Từ Giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh !
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…
Một chữ ” tót” đầy khinh bỉ, đã vạch trần chân tướng kẻ “Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.
“Cân sắc cân tài”, “ép”, “thử”,… những cử chi, cách thức mua người ấy của tên lái buôn họ Mã mới thật ghê tởm! Chỉ sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưa”, Mã Giám Sinh mới “dặt dìu” mua bán. Hắn là kẻ khôn ngoan đến róc đời, trong mọi mánh lới buồn thịt bán người. Cũng sang trọng kiểu cách như ai. Chẳng qua chỉ là hoa hòe hoa sói thớ lợ:
Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều “,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.
Hai chữ “cò kè” đã bóc trần bản chất bủn xỉn của một kẻ “Quanh năm buôn phấn bán hương đã lẻ”
Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách rất sống của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nghệ thuật nào cũng rất sống, đằng sau đó là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người bạc ác tinh ma này! Bức chân dung phản diện của Mã Giám Sinh có giá trị tố cáo hiện thực đặc sắc, lên án bọ buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.
Kiều là một thiếu nữ hiếu thảo, giàu đức hi sinh, Trước cảnh gia biến nàng bán mình để chuộc cha, để cứu gia đình. Nàng tự xem thân mình như “hạt mưa” nhỏ bé hèn mọn. Tất cả vì “ba xuân”, một lòng đền đáp công ơn sinh thành của cha me:
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.
Kiều sống trong tâm trạng bi kịch dữ dội giữa tình riêng với tình nhà, giữa chữ tình với chữ hiếu, “nỗi mình thêm tức nỗi nhà”. Nàng vô cùng đau khổ. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu “lệ hoa” đã tuôn rơi, cả người nàng như héo hon rũ xuống: “ngại ngùng”,… “bóng thẹn”,… “mặt dày”, “nét buồn như cúc điệu gầy như mai” Vì là người đẹp đau khổ cho nên các ẩn dụ so sánh mà nhà thơ sử dụng đều gắn liền với cái đẹp: thềm hoa, lệ hoa “nét buồn như cúc, điệu gây như mai”. Kiều bị mụ mối và Mã Giám Sinh “ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”. Mã Giám Sinh đã “đắn đo cân sắc cân tài”. Con người Kiều, tài sắc Kiều đã trở thành món hàng đem ra mua bán. Nguyễn Du đã ca ngợi lòng hiếu thảo, đức hi sinh của Kiều trước gia biến, cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”, khi bị hắn “cò kè bớt một thêm hai”… Đoạn thơ chứa chan tinh thần nhân đạo là ở những chi tiết nội dung ấy.
“Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc sảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, ở đây là Mã Giám Sinh. Nhà thơ đã lên án mặt trái đồng tiền hôi tanh: “Tiền lưng đã có, việc gì chàng xong!”. Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dâp vùi. Đó là giá trị nhân đạo.
Đoạn thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du trong sự tả cảnh mua Kiều, trong tả người: tả Mã Giám Sinh, tả mụ mối thì sử dụng bút pháp hiện thực, chi tiết hiện thực; tả Kiều thì thiên về ước lệ. Rất biến hóa, tài tình. Ngôn ngữ mang sắc thái biểu cảm đầy ấn tượng.
Tóm lại, cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực và chứa chan tinh thần nhân đạo. Đoạn thơ là sự khởi đầu tiếng kêu thương của một kiếp đoạn trường.
Thân phận của người con gái vốn đã rất mong manh, sinh ra vào thời phong kiến lại càng phải chịu nhiều những đau đớn và tủi nhục. Thúy Kiều một nhân vật trong truyện Kiều của Nguyễn Du là tiêu biểu cho thân phận của người phụ nữ lúc bấy giờ. Nguyễn Du đã đánh những lời ai oán, đau đớn nhất để nói về cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều”, đã lột tả trần trụi thân phận của nàng Kiều bị mua đi bán lại như món hàng vô tri vô giác.
Thuý Kiểu là người con gái tài sắc của một gia đình trung lưu nền nếp. Trong tiết Thanh minh, Thuý Kiểu tình cờ gặp Kim Trọng. Hai người nhanh chóng yêu nhau rổi hẹn ước thề nguyện. Bỗng dưng, Vương viên ngoại b| thằng bán tơ vu oan. Gia đỉnh tan nát, cha và em trai bi bắt bớ, đánh đập, Thuý Kiều đành phải bán minh chuộc cha rổi rơi vào lẩu xanh lán thứ nhất. Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu ” trâm gãy bình tan”.Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm. Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả chung chung mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Nguyễn Du đã chụp cận cảnh làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Bộ mặt mày râu nhẵn nhụi dĩ nhiên là thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai lơ. Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì. Áo quần bảnh bao là áo quần trưng diện, cũng thiếu tự nhiên, Hai chữ “bảnh bao” thường dùng để khen áo quần trẻ em chứ ít dùng cho người lớn”. Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ ngoài nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ngầm càng sâu cay hơn khi một người đã “trạc ngoại tứ tuần” ( sắp lên lão ) lại tỉa tót công phu, lại cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ trung như trai mới lớn.Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (“viễn khách”). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Đặc biệt hành động thô lỗ, sỗ sàng của một kẻ vô học, đội lốt người học trò trường Quốc tử giám, đã hiện lên khá rõ qua chi tiết:
Ghế trên ngòi tót sỗ sàng.
“Ghế trên” là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc cao niên, bậc huynh trưởng, bậc đáng kính. Kẻ đi hỏi vợ là bậc con cái mà lại “ngồi tót” thì thật chướng mắt, vô lễ. Mã Giám Sinh xuất hiện trong buổi đến xem mặt như một kẻ bất nhân, đê tiện nhất
Khác màu kẻ quỷ người thanh
Chẳng hay con lại mắc tay bợm già.
Bản chất của Mã Giám Sinh lại càng rõ hơn khi hắn:
Đắn đo cân sức cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.
Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để “cò kè”mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp.
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm.
Một loạt các từ “cò kè, thêm bớt, ngã giá…” đã chứng tỏ Mã Giám Sinh là một kẻ buôn người sành sỏi, lọc lõi. Y đã lộ nguyên hình là một con buôn sành sỏi. Mã Giám Sinh đâu còn là người học trò trường Quốc tử giám như đã xưng danh. Mặc dù ăn mặc chải chuốt, nói những lời hoa mỹ, ra vẻ lịch sự nhưng dần dần bản chất xấu xa, đê tiện, giả dối của y đã lộ rõ.
Chính vì sự tủi nhục khi phải bán mình, lại càng đau đớn hơn khi bán cho một tên buôn người bỉ ổi và đê tiện như Mã Giám Sinh. Nguyễn Du đã không để cho Kiều nói được một lời nào trong suốt cuộc buôn bán, kỳ kèo của Mã Giám Sinh. Nỗi đau đớn, thẹn thùng, xót xa tủi hổ ê chề đã được Nguyễn Du đẩy lên đến đỉnh điểm. Từ một người con gái, gia đình phong lưu, “Kín cổng cao tường”, nay biến thành một món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của mụ mối và Mã Giám Sinh, làm sao không khỏi đau đớn cho được. Tâm tình nàng Kiều lúc này thật ngổn ngang, nỗi đau vì mối tình đầu tan vỡ, nỗi uất ức vì án oan mà cha và em trai phải chịu, nỗi xấu hổ, thẹn thùng khi bản thân lâm vào cảnh phải để người đàn ông lạ tới xem mặt,… Hình ảnh nàng khi bước chân ra khỏi khuê phòng thật muôn vàn xót thương :
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.
Nhìn cảnh vật nàng thấy xấu hổ ngại ngùng.Nước mắt của nàng thấm đẫm cả trang giấy, mỗi bước đi là mỗi bước xót đau. Những giọt nước mắt của tan nát, khổ đau làm quặn thắt lòng người đọc, khiên ai cũng thương thay cho thân phận nàng Kiều. Bước vào phòng khách với vẻ dè dặt, tủi hổ của người con gái khuê các :
Ngại ngùng dơn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trong gương mặt dày.
Nỗi đau khổ ấy đã đến tột cùng khi chẳng một ai mảy may động tâm thương cho nàng , mụ mối thì vén tóc bắt tay , lạ lùng đối xử với 1 một món hàng còn MGS thì đặt tài năng và nhan sắc lên cân đo đong đếm . Đến lúc này người con gái tài hoa nhan sắc ấy cảm thấy tủi hổ bẽ bàng:
Mối càng vén tóc bắt bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào số phận ai oán, bi thương của Kiều trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc xảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dâp vùi. Đó là giá trị nhân đạo. Có thể nói đoạn trích là 1 tiếng khóc ai oán cho thân phận con người , cho nhân phẩn con người bị chà đạp phải chăng trái tim của nhà thơ đang rung lên nức nở cùng với nỗi đau của Thúy Kiều. Đáng ra con người tài sắc “mười phân vẹn mười” này xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhất trong những người hạnh phúc, vậy mà xã hội phong kiến thối nát đã chà đạp phũ phàng khiến nàng phải gánh chịu khổ đau và bất hạnh trong mười năm đoạn trường cay đắng. Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật chính diện và phản diện và sự am hiểu của sâu sắc tâm lý nhân vật của ông trong tác phẩm.
Đoạn thơ Mã Giám Sinh mua Kiều đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận đau khổ của những con người bi áp bức, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ. Qua đó, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước nỗi đau của con người và lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo. Đồng thời bày tò sự trân trọng đối với khát vọng tự do, hạnh phúc và khát vọng công lí, chính nghĩa.
Tác phẩm Truyện Kiều là một tác phẩm bất hủ gắn liền với tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện tập trung xoay quanh cuộc đời sóng gió của Kiều, cũng là cuộc đời của bao người phụ nữ trong thời phong kiến. Họ luôn phải chịu nhiều cay đắng, tủi nhục từ bọn người bất nhân, vô lương tâm dùng đồng tiền của mình chà đạp lên quyền sống của họ. Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã lột tả trần trụi thân phận của nàng Kiều là một trường hợp tiêu biểu cho chế độ thời ấy.
Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (gia biến và lưu lạc). Sau khi bị thằng bán tơ vu oan , gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” bắt bớ, khảo tra, đánh đập dã man. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.
Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm.
Cái tin Kiều muốn bán mình đã gây xôn xao dư luận cả một vùng rộng lớn vì không ai không biết đến nàng một người con gái nức tiếng tài sắc vẹn toàn. Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối dẫn đến nhà để cưới nàng làm vợ lẽ.
Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả chung chung mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (“viễn khách”). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:
“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Hai câu mà chỉ cung cấp được một thông tin nhỏ là hắn mang họ Mã. Còn tất cả đều mập mờ, không rõ ràng. “Giám Sinh” là tên gọi chung của các sinh viên trường Quốc tử giám chứ không phải là tên riêng. Còn “huyện Lâm Thanh” rộng bao la, ai biết hắn ở chỗ nào, gia thế ra sao?. Cách nói năng của Mã đã bộc lộ một phần về con người hắn. Hắn chẳng có chút gì là nho nhã, thanh lịch của một chàng “giám sinh”, hạng người có học.
Nguyễn Du đã chụp cận cảnh làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Bộ mặt mày râu nhẵn nhụi dĩ nhiên là thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai lơ. Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì. Áo quần bảnh bao là áo quần trưng diện, cũng thiếu tự nhiên, Hai chữ “bảnh bao” thường dùng để khen áo quần trẻ em chứ ít dùng cho người lớn”. Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ ngoài nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ngầm càng sâu cay hơn khi một người đã “trạc ngoại tứ tuần” ( sắp lên lão ) lại tỉa tót công phu, lại cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ trung như trai mới lớn.
Chân dung của y còn rõ nét qua hành động. Chỉ một câu:
“Trước thầy sau tớ lao xao”
Nguyễn Du đã tô đậm cái cung cách đi hỏi vợ lạ đời của Mã Giám Sinh. Thầy tớ hắn có khác chi một lũ người ô hợp, nhốn nháo, lộn xộn, lưu manh lấc cấc.
Đặc biệt hành động thô lỗ, sỗ sàng của một kẻ vô học, đội lốt người học trò trường Quốc tử giám, đã hiện lên khá rõ qua chi tiết:
“Ghế trên ngòi tót sỗ sàng”.
“Ghế trên” là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc cao niên, bậc huynh trưởng, bậc đáng kính. Kẻ đi hỏi vợ là bậc con cái mà lại “ngồi tót” thì thật chướng mắt, vô lễ.
Bản chất con buôn của Mã Giám Sinh bộc lộ đầy đủ hơn trong cuộc mua bán Kiều. Miệng nói những lời hoa mỹ:
Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều”
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Nhưng hành động của y lại hoàn toàn trái ngược. Một loạt các từ “cò kè, thêm bớt, ngã giá…” đã chứng tỏ Mã Giám Sinh là một kẻ buôn người sành sỏi, lọc lõi. Y đã lộ nguyên hình là một con buôn sành sỏi. Mã Giám Sinh đâu còn là người học trò trường Quốc tử giám như đã xưng danh. Mặc dù ăn mặc chải chuốt, nói những lời hoa mỹ, ra vẻ lịch sự nhưng dần dần bản chất xấu xa, đê tiện, giả dối của y đã lộ rõ.
Với bút pháp kết hợp giữa kể và tả, bằng một số nét phác họa về mối quan hệ mờ ám, vẻ ngoài chải chuốt, nói năng vô lễ, cử chỉ vô học, hành động vô lương, Nguyễn Du đã khắc họa sắc nét hình tượng Mã Giám Sinh, kẻ buôn người, từ ngoại hình đến tính cách. Mã Giám Sinh trở thành một điển hình bất hủ cho sự đê tiện, tàn ác.
Nói đến Kiều trong toàn bộ cuộc mua bán này, Nguyễn Du đã để cho Kiều câm lặng, không nói được một lời nào. Nỗi đau đớn, thẹn thùng, xót xa tủi hổ ê chề đã lên đến đỉnh điểm. Từ một người con gái, gia đình phong lưu, “Kín cổng cao tường”, nay biến thành một món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của mụ mối và Mã Giám Sinh, làm sao không khỏi đau đớn cho được.
Nguyễn Du đã sử dụng một loạt hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng, lấy thiên nhiên làm chuẩn mực, để diễn tả tâm trạng của Kiều khác hẳn với đoạn miêu tả Kiều trong cuộc mua bán ở “Kim Vân Kiều truyện”, từ đầu đến cuối, Kiều tuyệt nhiên không nói một lời. Điều đó chứng tỏ sự sáng tạo của Nguyễn Du, sự am hiểu sâu sắc và thấu đáo tâm lý nhân vật của đại thi hào.
Nguyễn Du không đưa ra một lời nhận xét, đánh giá trực tiếp nhưng qua một loạt các hình ảnh, từ ngữ miêu tả dáng vẻ, tâm trạng Kiều “Ngại ngùng dợn gió e sương…..mặt dày”, “nét buồn……..như mai” chúng ta cũng cảm nhận được sự cảm thông, xót xa cho người con gái đẹp tài hoa nhưng đã bị những thế lực hắc ám trong xã hội phong kiến ( bọn buôn thịt bán người, thế lực đồng tiền) chà đạp, biến thành một món hàng giữa chợ.
Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật chính diện và phản diện và sự am hiểu của sâu sắc tâm lý nhân vật của ông trong tác phẩm. Ông đã phơi bày một cách chân thật bản chất đê tiện, xấu xa của Mã Giám Sinh đồng thời lên án xã hội phong kiến, tố cáo gay gắt sự tàn nhẫn của đồng tiền và những kẻ xấu xa đã chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm của người phụ nữ.
Nói đến Truyện Kiều là nói đến quyền sống con người bị chà đạp oan uổng. Tiêu biểu nhất cho tình trạng bị chà đạp có lẽ là đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều, trong đó, Kiều bị xem như một đồ vật.
Đoạn văn đã thể hiện tài quan sát tinh vi, tài miêu tả sinh động và nhất là thể hiện tấm lòng yêu đời, thương đời của Nguyễn Du. Sau khi quyết định bán mình chuộc cha. Kiều nhờ mụ mối dắt người mua đến. Đây là cảnh Mã Giám Sinh đến tự giới thiệu và mua người.
Đặc sắc thứ nhất trong cảnh mua người này là hình ảnh kẻ mua người. Bao nhiêu khinh bỉ, ghê tởm đối với bọn buôn người, Nguyễn Du dồn vào việc khắc họa nhân vật Mã Giám Sinh: Y xuất hiện trước người đọc bằng mấy câu đối đáp cộc lốc của một kẻ hoàn toàn vô giáo dục:
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Thường người có giáo dục, khi được hỏi vấn danh, một nghi thức dạm hỏi, thì người được nói phải tự xưng là “Tiểu sinh”, “Văn Sinh” hoặc một cách gọi nào tỏ ý khiêm nhường. Đằng này Mã Giám Sinh nói trống. Lại nữa Mã Giám Sinh lại không phải là tên. Rõ ràng là trả lời qua quýt, để che giấu tông tích. Còn hỏi quê thì Mã đã nói dối. Y ở Lâm Tri lại nói chệch là Lâm Thanh, để đánh lừa.
Về ngoại hình nhà thơ chú ý tính chất không ra dáng trượng phu của Mã. Tuổi ngoại tứ tuần, tức là đã qua cái tuổi đi hỏi vợ, nhưng cạo sửa mặt mày ra vẻ trai tơ với áo quần bảnh bao kiểu chú rể, không tương xứng chút nào.
Về cử chỉ thì Mã cùng lũ đầy tớ là một bọn hạ lưu, không tôn ti trật tự, cho nên: “Trước thầy sau tớ xôn xao”, âm thanh mạnh ai nấy nói, chẳng ai nhường ai. Đi vào vấn danh mà cũng không giữ được một chút trang nghiêm lễ độ. Đặc biệt ghê tởm là Mã tự cho mình cái quyền “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, chướng tai gai mắt. Điều đó chỉ có thể giải thích là vì y cậy thế có tiền!
Toàn bộ cách ăn nói, cử chỉ, đứng gồi, ăn mặc đều chứng tỏ Mã Giám Sinh là một đứa vô loài, bất nhân.
Nhưng bản chất tàn bạo, thô lỗ của kẻ có tiền Mã Giám Sinh bộc lộ rõ nhất trong cảnh mua người. Khi mụ mối giục Kiều bước ra cho khách xem mặt, thì Mã đã xem xét kĩ lưỡng như xem một đồ vật:
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Vén tóc, bắt tay là cách giới thiệu hàng cho khách xem rất kĩ. Chưa đủ, Mã còn:
“Đắn đo cân sắc, cân tài.
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”.
Mã còn thử xem Kiều có tài thật không, ép nàng đánh đàn, làm thơ cho hắn thấy.
Hài lòng với Kiều, Mã mới bắt đầu ngã giá. Mấy câu:
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Có hai chi tiết đáng chú ý: “cò kè” thêm bớt rất chi li, và “giờ lâu” tức là mất nhiều thì giờ lắm hắn mới ngã ngũ cái giá hơn 400 lạng. Mã không hề có cảm giác xúc động trước sắc tài của Kiều, trước sau hắn chỉ tính toán có một lỗ lãi, kiếm giá hời! Trong văn học Việt Nam không đâu có một cảnh mua người cụ thể, lạnh lùng, tàn nhẫn như vậy.
Nhưng số phận, tình cảm người bị bán như thế nào? Nhà thơ đã hết lòng thông cảm với nỗi đau của cô gái trẻ phải bán mình chuộc cha. Vừa tức cho cái oan của gia đình, cho đến cái cảm giác thẹn thùng sượng sùng phải chường mặt cho khách xem mặt. Khách bảo gì cô cũng phải làm mà tấm lòng thì sầu thảm như đưa ma cho tuổi trẻ mình. Nhà thơ không nói nhiều, chỉ ba nét:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng,
Ngại ngùng dín gió e sương,
Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày”;
“Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” là đã nói lên toàn bộ nỗi khổ đau, xấu hổ, tủi nhục của Kiều.
Đây là bức tranh chiến thắng của đồng tiền trước tài sắc con người. Câu kết vừa là sự thật phũ phàng, vừa là một lời mai mỉa:
“Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!”.
Tóm lại, đoạn văn đã thể hiện sâu sắc thảm cảnh của con người, và nỗi lòng đau đớn, thông cảm của Nguyễn Du. Đoạn văn thể hiện một tài nghệ quan sát tinh tế, khắc họa sinh động. Nguyễn Du vĩnh viễn hoá một cảnh tủi nhục của con người để muôn đời ghi nhớ, nhằm tố cáo các thế lực tàn bạo, và đấu tranh cho nhân phẩm của con người.