/tmp/ojpqc.jpg
Nội dung bài viết
Bài văn Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo gồm dàn ý chi tiết, 10 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 11.
Chưa bao giờ trên những trang văn học lại thấm đẫm cái ứa nước mắt của rượu, cái chát chúa của những câu chửi và cả tấn bi kịch cho một kiếp người không ra người, quỷ không ra quỷ như trong “Chí Phèo” của Nam Cao. Bằng biệt tài miêu tả tâm lí, khả năng lách sâu vào những diễn biến trong nội tâm nhân vật, tác giả Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo với quá trình tha hóa từ người nông dân lương thiện thành một tên lưu manh, “con quỷ dữ” đầy ám ảnh và quằn quại trong bi kịch bị từ chối quyền làm người.
Cũng như bao người nông dân khác, Chí Phèo xuất hiện trong trang văn của Nam Cao với hoàn cảnh xuất thân và lai lịch đáng thương. Chí vốn là một đứa con hoang bị cha mẹ bỏ rơi nơi “cái lò gạch cũ” và được một bác đi thả ống lươn nhặt về. Đến năm hai mươi tuổi, không một tấc đất cắm dùi, hắn phải đi ở để kiếm tiền nuôi thân. Khi vào làm thuê tại nhà Bá Kiến, vì ghen với chàng trai khỏe mạnh, lực lưỡng, lão địa chủ đã rắp tâm đẩy anh canh điền chất phác, lương thiện vào vòng tù tội. Bi kịch tha hóa và bị từ chối quyền làm người đầy đau đớn của Chí Phèo chính thức bắt đầu.
Qua dòng hồi ức mà Chí Phèo nhớ lại sau khi gặp Thị Nở thì trước lúc vào tù, Chí Phèo giản đơn chỉ là một người nông dân lương thiện, hiền lành, chất phác với ước mơ chân chính “một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Anh canh điền dù nghèo khó nhưng vẫn có ý thức về lòng tự trọng, khi bị bà ba – vợ Bá Kiến gọi lên bóp chân, hắn chỉ thấy nhục nhã.
Nhưng rồi, khát vọng nhỏ bé, bình dị về một mái ấm gia đình của Chí đã bị tên cường hào Bá Kiến tước đoạt. Nhà tù trở thành cánh cửa khép lại cuộc sống của một con người và đưa Chí gia nhập thế giới của quỷ. Sau khi ra tù, từ anh canh điền lương thiện, Chí hóa thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” với sự tha hóa về cả nhân hình và nhân tính. Về nhân hình, y đã bị tước đoạt hình hài của một con người với “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm….”. Chỉ bằng vài ba nét vẽ, tác giả đã phác họa thành công hình hài của một tên “săng – đá” khiến ai bắt gặp cũng đều sợ hãi và né tránh. Nhưng ám ảnh hơn cả là sự tha hóa về nhân tính: bản chất hiền lành, chất phác bị thay thế bởi sự lưu manh, tàn nhẫn. Chí trở thành một kẻ liều mạng với những công việc như kêu làng, đập phá, đâm chém, rạch mặt ăn vạ,…
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã đưa chi tiết tiếng chửi xuất hiện để làm nổi bật rõ nét bị kịch bị loại khỏi xã hội con người của Chí: “Hắn vừa đi vừa chửi…”. Trong cơn say, hắn chửi cả làng Vũ Đại nhưng không một ai lên tiếng, chỉ có tiếng sủa của vài ba con chó dữ đáp trả bởi ai cũng nghĩ “Chắc nó trừ mình ra”. Chí cứ thế trượt dài trên con đường lưu manh hóa, đến lúc gặp Thị Nở, những khát vọng về cuộc sống lương thiện ngày xưa ùa về thì đã quá muộn. Dù muốn trở lại làm người nhưng cánh cửa quay về đã bị khép lại. Cuối cùng, việc Thị Nở rời bỏ y đã nhận ra rằng: tấm vé quay trở về làm người lương thiện không dành cho hắn. Chí không thể xóa đi những vết sẹo trên mặt, không thể thay đổi những định kiến về “con quỷ dữ” trong anh. Để rồi Chí chát chúa, cay đắng trong bi kịch của con người nhưng bị khai trừ ra khỏi thế giới con người: “Ai cho tao lương thiện”, “Tao không thể làm người lương thiện được nữa rồi”. Và cuối cùng, y chết tức tưởi, đớn đau, vật vã trong hành trình lưu manh hóa.
Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo đã thể hiện sự thành công của tác giả trong việc xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Bằng quan niệm văn chương tiến bộ, sắc sảo, nhà văn Nam Cao đã nhận ra hành trình bị bần cùng hóa, lưu manh hóa mang tính quy luật của số phận người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Đồng thời, thông qua cuộc đời của Chí, chúng ta còn thấy được giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Đó là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo, bất nhân đã cướp đi cuộc sống chân chính của con người. Qua đó, chúng ta thấy được sự cảm thông, thương xót của nhà văn Nam Cao đối với người số phận người nông dân trong hành trình bị bần cùng hóa và lưu manh hóa.
Gấp trang sách lại nhưng ám ảnh về một anh canh điền lương thiện cuối cùng chết đau đớn, bi thảm trong bi kịch bị tước đoạt, bị chối bỏ và bị khai trừ khỏi xã hội loài người vẫn còn đó. Điều này được tạo nên bởi tài năng của nhà văn Nam Cao trong việc xây dựng hình tượng nhân vật cùng biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật sắc nét và tinh tế.
Năm 1941, Nhà xuất bản Đời mới cho ra đời truyện ngắn “Đôi lứa xứng đôi”. Năm 1946, truyện được tái bản, Nam Cao đổi tên truyện thành “Chí Phèo”. Đó là một truyện ngắn độc đáo viết về đề tài nông dân trước cách mạng. Nam Cao không nói vể tô tức, sưu thuế, mà đi vào hiện tượng lưu manh hoá ở nông thôn. Qua cuộc đời của nhân vật Chí Phèo, tác giả đã sáng tạo nên một bức tranh xã hội chân thực về đời sống khổ cực và thê thảm của người dân cày và nông thôn Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Với cảm quan hiện thực sắc sảo, với trái tim nhân hậu thiết tha, với hiểu biết sâu sắc về nông thôn, Nam Cao đã thể hiện một cách xúc động con đường bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo, tạo nên giá trị tố cáo xã hội của tác phẩm đầy ám ảnh.
Làng Vũ Đại, cái đất “quần ngư tranh thực” đã nở ra một Chí Phèo. Hắn sinh ra đã khổ rồi. Không cha mẹ, không một tấc đất cắm dùi, tứ cố vô thân. Tuổi thơ hắn vồ cùng đau khổ, đầy bất hạnh. Năm 20 tuổi, Chí Phèo làm canh điền cho bá Kiến. Vợ ba bá Kiến đã bắt hắn “bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy…” mà Chí Phèo bị giải huyện, phải đi tù bảy, tám năm trời.
Nhà tù thực dân đã biến anh canh điền hiền lành, cục mịch thành một tên lưu manh ngổ ngáo. Mặt hắn thay đổi đáng sợ “trông đặc như thẳng sắng đá”. Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, Cjậ mặt thì đen mà rất cơng comg, hai mắt gườm gườm, ngực và cánh tay chạm trổ rồng phượng, với ông tướng cầm chuỳ, trông gớm chết! Sự thay đổi của Chí “khắc hẳn”, đến nỗi cả dân làng Vũ Đại, mới đầu “chẳng ai biết hắn là ai”. Năm đó Chí Phèo 27 hay 28 tuổi gì đó.
Về làng hôm trước thì hôm sau Chí Phèo ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Say khướt, hắn cầm một cại vỏ chai đến thẳng nhà bá Kiến “gọi tên tục ra mà chửi”, “chửi sướng miệng!’, “chửi ngoa ngoắt” làm sao! Cả làng Vũ Đại xưa nay đã có ai dám chửi bá Kiến như Chí Phèo? Lí Cường và Chí Phèo đã đấm, đã đá nhau “bình bịch”. Chí đập vỏ chai vào cột cổng, rạch mặt kêu làng. Hắn lăn lộn dưới đất “máu ra loe loét”. Cả làng Vũ Đại kéo đến xem. Như bị người ta cắt họng, hắn vừa chửi vừa kêu làng: “ôi làng nước ơi,bố con thằng bá Kiến nó đâm chết tôi!” . Bá Kiến một tên cường hào “khôn róc đời”, biết “mêm nắn rắn buông” đã xử nhũn với Chí. Cụ bá “thân mật” mời Chí vào nhà chơi. Cụ cho Chí biết là hắn “có họ” với lí Cường. Cụ giết gà, thết rượu, đãi thêm một đồng bạc để Chí uống thuốc. Hành động của Chí vừa mang tính chất rửa hận, trả thù, vừa mang tính chất côn đồ, nên hắn thấy hắn “cũng oai”, dám “độc lực chọi nhau” với cha con bá Kiến, bốn đòi làm tổng lí “khét tiếng” trong làng huyện. Hình ảnh Chí Phèo từ nhà bá Kiến ra về “loạng choạng vừa đi vừa cười”, hắn nghĩ đến bài thuốc dấu với vài nắm lá, là cái mặt hắn lại đâu vào đấy ngay, còn đồng bạc để uống rượu – cho ta thấy tính chất lưu manh của một anh nông dân ngu dốt đã bị tha hoá.
Bốn ngày sau tiêu hết đồng bạc, Chí Phèo gây ra bao chuyện “động trời” ghê gớm. Hắn đốt quán mụ bán rượu… Hắn bốc của cô hàng xén một dúm muối trắng. Hắn vạn ba bốn quả chuối xanh của nhà nào đó. Hắn ngồi uống rượu với chuối xanh chấm muối và thấy rằng cũng ngon. Hành động ăn cướp ấy, cách ngồi uống rượu ấy ở cái miếu con tại bờ sông cho thấy Chí Phèo đã là một tên lưu manh rồi. Hắn đang đi tiếp con đường của Năm Thọ, của Binh Chức. Lần thứ hai, sáu ngày sau đi tù về, Chí Phèo lại đến nhà bá Kiến, với con dao nhọn và sắc bỏ trong túi áo, với “cái mắt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật”. Chí Phèo gặp cụ bá để “xin đi ở tù”, vì “từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại sinh ra thích ở tù”. Hắn nói là phải đâm chết dãm ba thằng, để cụ Bá bắt hắn giải huyện! Chí cho biết “đi tù sướng quá” vì đi tù “còn có cơm để mà ăn..”. Nhà văn Nam Cao đã phản ánh cay đắng tột cùng của một bộ phận nông dân trong xã hội cũ đã bị chính quyền thực dân phong kiến đẩy họ và con đường lưu manh hoá. Muốn sống chỉ có một con đường: lưu manh, ăn cướp! Với một tiếng cười “khanh khách” – cái cười Tào Tháo, với cái “vỗ vai” và một câu nói khích, bá Kiến đã sai được Chí Phèo cầm dao đến nhà đội Tảo “một tay vai vế trong làng” để đòi nợ 50 đồng bạc cho cụ.
Chẳng phải giao tranh đổ máu, chỉ bằng mấy tiếng chửi phủ đầu, Chí đã đòi được món nợ mà đội Tảo toan “vỗ tuột”. Chí Phèo “vênh vênh”, tự thấy “oai thêm bậc nữa”, hắn tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta!”. Năm đồng bạc thưởng, năm sào vườn ở bãi sông mới cắm thuế của một ngưòi làng, cụ bá đã ban cho Chí Phèo. Và hắn đã trỏ thành “anh đầy tớ chân tay mới” của bá Kiến. Vốn vô học, đầu bò, lưu manh, Chí Phèo đã bị bá Kiến dụ dỗ mơn trớn, mua chuộc bằng vật chất, hắn bị tha hoá, trượt dài trên con đường tội ác và tội lỗi.
Từ đó trở đi, bàn tay Chí Phèo vấy đầy máu. Người ta đầu độc hắn bằng rượu. Hắn trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, phá bao nhiêu cơ nghiệp, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện – Cuộc đời hắn giờ đây là những cơn say dài mênh mông, vô tận “hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, doạ nạt trong lúc say..”. Cái mặt của Chí Phèo thật đáng sợ, như mặt của một con vật lạ, vằn dọc vằn ngang biết bao nhiêu là sẹo, “vàng vàng… xạm màu gio”. Cái thẻ biên tên hắn, hắn cũng không có. Hắn thuộc hạng lưu tán, người ta khai hắn “lâu nám không về làng”. Hắn không nhớ tuổi hắn, và “hắn không cỏn ngày tháng nữa”. Chí Phèo trở thành một kẻ điên khùng, gần như mất trí. Hắn vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những ai không chửi nhau với hắn. Hắn chửi “đứa chết mẹ nào thân hắn” cho hắn khổ! Con đường tha hoá của Chí Phèo chỉ trong vòng hơn mười năm trời và hắn đã trờ thành một con quỷ dữ, rất ghê tởm. Tất cả dân làng “đểu sợ hắn” và “tránh mặt hắn” mỗi lần hắn qua! Cái chế độ thực dân phong kiến, mà kẻ chủ mưu là tên cường hào xảo quyệt bá Kiến đã cướp đi cả hình người, cả lình hồn người của Chí!
Chí Phèo đã đi tiếp con đường của những quỷ dữ.
Năm đó, Chí Phèo 38 hay 39, 40 hay ngoài 40? Mọi chuyện khủng khiếp cuộc đời của Chí diễn ra trong vòng sáu ngày đêm. Bắt đầu từ một đêm trăng rằm “ánh trăng chảy trên đường trắng tinh”. Chí Phèo bất ngờ đến nhà Tự Lãng, một anh goá vợ làm nghề hoạn lợn kiêm thầy cúng. Hai đứa ngồi uống rượu dưới ánh trăng, hết ba chai, như “một đôi tri kỉ cuồng”… Chính đêm trăng đó, Chí Phèo đã ôm lấy thị Nở mà làm tình, khi thị đang “há hốc” mồm ngủ dưới trăng. Chính đêm ấy, Chí Phèo bị cảm rất nặng. Mắt hoa lên. Chân tay thì lẩy bẩy. Mửa thốc, mửa tháo, mửa ồng ộc… Bát cháo hành và bàn tay săn sóc của thị Nở đã làm cho hắn cảm động, hắn bâng khuâng buồn, gần như là ăn năn. Bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi, nay được đánh thức dậy. Lâu nay, hắn doạ nạt, cướp giật mới có ăn. Lần đầu tiên, Chí được một người đàn bà săn sóc. Chí “thèm lương thiện”, hắn muốn “làm hoà” với mọi người. Hắn cũng muốn với thị Nở “làm thành một cặp rất xứng đôi”. Trận ốm cũng đã làm cho Chí thay đổi cả về sinh lí lẫn tâm lí nữa? Lần đầu tiên hắn nhớ lại mơ ước bình dị, lương thiện thời trai trẻ muốn “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải..”.
Sau năm ngày đêm Chí Phèo với thị Nở sống với nhau như vợ chổng, thị Nở “đừng yêu” để thị hỏi bà cô thị đã. Bà cô thị xỉa xói thị, không cho thị lấy một kẻ chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ! thị Nở đã trút mọi bực dọc lên mặt nhân ngãi. Chí Phèo bị đẩy vào hố thẳm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn tức quá, muốn đâm chết “cái con khọm già”. Hắn uống đến say mểm “rồi hắn đi!”. Với một con dao ở thắt lưng, Chí Phèo đến thẳng nhà bá Kiến chứ không đến nhà thị Nở! Lần thứ ba, Chí Phèo đến gặp bá Kiến, không phải để xìn tiền mà đòi lương thiện, hắn “không thê là người lương thiện nữa”, “làm thế nào chó mất được những vết mảnh chai trên mặt này?”. Đó I là những tiếng kêu đau đớn, uất hận, hãi hùng! Muốn được làm người lương thiện mà không ai cho, mà không thể được, cái bi kịch‘ấy của Chí Phèo thật khủng khiếp, đáng sợ! Kẻ bất lương muốn hoàn lương đã khó. Quỷ dữ làm sao có thể thành người lương thiện được? Chí Phèo chỉ còn một cách là đâm chết bá Kiến, kẻ làm hại đời anh, rổi tự sát! Cái chết cửa Chí Phèo là cái chết đầy bi kịch, cái chết khủng khiếp, đáng thương của một nông dân nghèo khổ, ngu dốt, bị XÔ đẩy, bị mua chuộc và bị đầu độc vào con đường tha hoá, lưu manh, tội lỗi không có lối thoát.
Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo thành nhân vật điển hình vể sự thống khổ, lưu manh hoá, chết trong bi kịch thảm thương hãi hùng cửa một bộ phận nông dân trong xã hội thực dân phong kiến. Năm Thọ đi biệt tăm, Binh Chức đã chết, Chí Phèo đã tự sát, nhưng cái lò gạch cữ vẫn còn, thị Nở đã thấy thoáng hiện ra… một Chí Phèo con sẽ ra đời. Cái xã hội ấy có bao giờ hết được những kẻ như Chí Phèo?
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã tố cáo và lên án cái xã hội thực dân phong kiến đã xô đẩy những người nông dân lương thiện vào con đường lưu manh, tội lỗi, đã cướp đi của họ cả hình người lẫn tính người. Truyện đã dựng nên một bức tranh hiện thực đen tối đầy máu, nước mắt và tội ác. Truyện “Chí Phèo” thấm đượm một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Nó như một tiếng kêu thương: hãy xoá bỏ tận gốc mọi cái ác để cứu lấy con người, để người nghèo được làm người lương thiện, được sống trong lương thiện.
1/ Mở Bài
– Giới thiệu về tác giả Nam Cao cùng tác phẩm Chí Phèo.
– Dẫn dắt và khái quát quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo.
2/ Thân Bài
a/ Giới thiệu những nét khái quát về nhân vật Chí Phèo.
– Hoàn cảnh xuất thân, lai lịch
– Tóm tắt các diễn biến chính trong cuộc đời nhân vật.
b/ Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo
* Giai đoạn 1: Trước khi vào tù
– Chí Phèo vốn là một anh canh điền lương thiện, làm thuê cho nhà Bá Kiến.
– Vì tính hay ghen, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù.
* Giai đoạn 2: Sau khi ra tù
– Chí Phèo trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” , thay đổi về nhân hình và tha hóa về nhân tính.
+ Về ngoại hình: mất đi nhân hình của một con người với “cái đầu thì trọc lốc”, “cái mặt thì đen…”, “hai mắt gườm gườm”.
+ Về nhân tính: Chí Phèo thường xuyên say rượu, chửi bới, chuyên rạch mặt ăn vạ và trở thành tay sai đi đòi nợ cho Bá Kiến – kẻ đã đẩy Chí vào
con đường lưu manh hóa.
– Chí Phèo bị từ chối quyền làm người.
c/ Ý nghĩa của quá trình tha hóa của Chí Phèo
– Thể hiện thành công của tác giả trong việc xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
– Thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm: quy luật bần cùng hóa, lưu manh hóa của số phận người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.
– Thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm: sự cảm thông, thương xót của nhà văn Nam Cao đối với người nông dân.
3/ Kết Bài
– Khẳng định tài năng của nhà văn Nam Cao trong cách xây dựng hình tượng người nông dân với bi kịch tha hóa.
Có ý kiến cho rằng: Nếu không viết: “Chí Phèo”, Nam Cao đã để lại cho Văn học Việt Nam một khoảng trống lớn. Chí Phèo là tác phẩm đầu tay của Nam Cao trình làng với bạn đọc, ngay từ khi xuất hiện nó đã trở thành một vấn đề, một kiệt tác của trào lưu văn học hiện thực. Đây là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân bởi đến đây người đọc mới hiểu thế nào là tận cùng nỗi khổ của người nông dân Việt Nam trong xã hội phong kiến. Nếu như ở những tác phẩm của các nhà văn hiện thực khác: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… hình ảnh người nông dân chỉ hiện lên với những áp bức bất công, bị dồn đến bước đường cùng, nhưng họ vẫn còn giữ được con người mình, nhưng đến với Nam Cao thì đã có những khám phá phát hiện mới mẻ, ông không chỉ phát hiện ra bi kịch bị bần cùng hóa mà còn khám phá phát hiện ra bi kịch bị lưu manh tha hóa bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân.
Mở đầu trang văn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh hết sức sống động độc đáo: Chí Phèo khập khiễng vừa đi vừa chửi: tiếng chửi của Chí Phèo ngay lập tức cho người đọc hình dung về một sự việc bất bình thường. Vì lẽ gì mà một con người phải cất lên những tiếng chửi như vậy? Tại sao những tiếng chửi đó lại không được đáp trả…? Nhưng chúng ta sẽ thấy tiếng chửi này không phải là bâng quơ, không đơn giản mà nó rất logic, rất có dụng ý. Ban đầu hắn chửi trời đến chửi đời rồi chửi ngay tất cả làng Vũ Đại… nhưng đối tượng của những tiếng chửi này là mơ hồ không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này… thì đối tượng đã được xác định.
Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến bi kịch của bản thân. Nhưng ngay lập tức hắn hiểu rằng tiếng chửi của hắn là vô vọng, hắn thấy thấm thía nỗi khốn khổ của số phận, hắn đã phải cất tiếng chửi để thèm mong có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà không người nào chịu chửi lại hắn, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoái không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, còn bằng lòng giao tiếp đối thoại với hắn. Chí chửi cả làng Vũ Đại với hy vọng sẽ có ai đó chửi lại. Nhưng hắn chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, và Chí vẫn còn lại một mình Chí trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.
Bằng cách mở đầu truyện độc đáo thế này, tác giả không chỉ giới thiệu mà còn bắt đầu hé mở cho người đọc thấy tình trạng bi đát của một số phận, đó là số phận người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo ban đầu tất cả là con số không: không nhà, không cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Nhưng đó mới chỉ là mở đầu, nỗi khổ đau đớn nhất của Chí Phèo là bị cả xã hội quay lưng lại, bị cướp mất linh hồn người, bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Từ quá khứ đến hiện tại, từ bản chất đến hiện tượng Chí Phèo đã biến đổi. Trong quá khứ Chí Phèo là một con người hiền như cục đất, có bản chất lương thiện, từ khi vào làm canh điền cho nhà Bá Kiến, rồi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau 7-8 năm ở tù ra, Chí Phèo đã rơi vào vô thức và bị lưu manh tha hóa, tất cả mọi hành động của Chí Phèo đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong vô thức: đâm thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ. Những tội ác của Chí cứ đầy lên trong con mắt người dân làng Vũ Đại.
Tưởng như số phận cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi; nhưng sự xuất hiện Thị Nở đã đưa Chí Phèo từ vực sâu của kiếp sống lưu manh tha hóa đến bến bờ của cõi đời lương thiện. Đây có thể xem là một sự kiện trọng đại, một biến cố mở ra một bước ngoặt của cuộc đời Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở lại với kiếp người. Sự xuất hiện của Thị Nở cùng bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người nhân hậu. Người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn kia lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại biết được sao có lúc nó hiền đến thế. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm của tình người nhân hậu đã làm cho con người lương thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ, thằng đầu bò đã phục sinh, giờ đây sức sống tâm hồn đã trỗi dậy trong Chí Phèo.
Sau khi con người lương thiện phục sinh, tính cách tâm hồn con người Chí Phèo đã tỉnh dậy lắng nghe những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày mà lâu nay Chí quên lãng. Chí bỗng hồi tưởng về những kỉ niệm của thời êm đẹp: Ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Đáng lẽ ra hắn cũng sẽ có được một cuộc sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi hắn tỉnh dậy hắn mới thấy hắn đã già mà vẫn còn cô độc hắn vẫn đang sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn, hắn cảm thấy buồn, cảm thấy tủi nhục. Hơn lúc nào hết, lúc này hắn mong ước được làm người, được trò chuyện.
Nhưng những giây phút được yêu của cuộc sống lứa đôi Chí Phèo – Thị Nở thật ngắn ngủi, hạnh phúc vừa hé mở đã khép lại. Chí Phèo và Thị Nở đã dắt tay nhau tới ngưỡng cửa cuộc đời nhưng bị từ chối phũ phàng bởi định kiến xã hội mà bà cô Thị Nở là đại diện. Khi tỉnh dậy và đối diện với hiện thực, Chí Phèo mới giật mình và nhận thức một cách sâu sắc hơn, rằng hắn đã bị từ chối khỏi cộng đồng và không thể trở thành người lương thiện trong con mắt mọi người được nữa.
Khi con người lương thiện trong Chí Phèo đã phục sinh thì hắn lại càng khao khát được làm người hơn bao giờ hết. Nhưng khao khát vẫn chỉ là khao khát, như ánh cầu vồng vụt tắt sau cơn mưa, như ngọn lửa nhỏ bị dập tắt khi mới vừa được nhen nhóm khát vọng làm người của hắn đã bị cự tuyệt hoàn toàn. Chí lại trở về với sự cô độc, và đau đớn, xót xa khi nhận ra mình đã không còn đường về quay trở lại: Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này? Đây chính là sự tự ý thức cao độ của Chí Phèo về bi kịch của bản thân mình. Hình ảnh những vết mảnh chai trên mặt chính là dấu vết của những năm tháng tội đồ. Hình ảnh này đã hằn sâu trong tâm trí của người dân làng Vũ Đại và trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với họ. Trong con mắt của mọi người, Chí Phèo là con quỷ dữ. Thằng đầu bò và hình ảnh này không thể tẩy xóa đi được nữa. Chính định kiến đã ngăn cản bước chân của Chí Phèo tìm về với cõi đời lương thiện.
Hơn ai hết, Thị Nở là người đem lại cho Chí Phèo sự đồng cảm về tình người nhân hậu, nhưng chính Thị Nở cũng là người đẩy Chí Phèo đến bờ vực của cái chết. Thị vừa là phương tiện, là công cụ lại vừa là nạn nhân của định kiến.
Đến đây, Chí Phèo rơi vào bi kịch của sự lựa chọn giữa sự sống và nhân cách cái Và cuối cùng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách của mình Chí Phèo cầm dao đâm chết Bá Kiến – kẻ thù lớn nhất của đời mình rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa chọn – một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó là cách duy nhất để con người lương thiện trong Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn lại.
Hành động tự sát của Chí Phèo là cuộc chiến đấu mạnh mẽ nhất, dữ đội nhất và là cuộc chiến đấu cuối cùng giữa con người hiền như cục đất và con quỷ dữ thằng đầu bò. Trong cuộc quyết đấu này, Chí Phèo đã chết, nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy và tỏa sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng thời cũng là sự thể hiện rõ ràng nhất của tư tưởng nhân đạo và tinh thần nhân văn của ngòi bút Nam Cao.
Khi đọc Chí Phèo của Nam Cao, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận thấy một điều thật sâu sắc: Chí Phèo là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị huỷ hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con “quỷ dữ”. Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, nỗi đau khổ lớn nhất có lẽ chính là cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người thật xót xa, nhức buốt của Chí cứ mãi hoài cắn xé trên từng câu chữ của Nam Cao.
“Bi kịch là tình cảnh éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng”. Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả đã thật sự bị ám ảnh bởi tiếng chửi rất lạ của một nhân vật chưa được nêu tên: “Hắn vừa đi vừa chửi… Bắt đầu hắn chửi trời… Rồi hắn chửi đời… Hắn chửi tất cả làng Vũ Đại… Hắn chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn… Hẳn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”. Đấy là tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi trong vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp, nhờ những câu văn ngắn, nhịp văn gấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại, của Chí trong cơn đau bi cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài). Chí chửi làng (cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người)…
Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí. Chí một mình đối diện với sa mạc cô đơn. Giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống, dù để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là vô thức, để tìm ra căn nguyên của khổ đau. Nhưng khốn khổ thay, Chí càng chửi càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng, cũng như sau đó, Thị Nở “không chỉ biết cho mà còn biết giữ”… Giá như… giá như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người ở làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ có cơ hội không xảy ra. Nhưng chuyện gì xảy ra thì nó đã xảy ra… Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời, ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chí là một “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà goá bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong một câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ. Suốt quãng đời niên thiếu, Chí Phèo không có tuổi thơ. Hắn phải sống kiếp bơ vơ “đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ”. Đến tuổi trưởng thành, hắn làm canh điền cho nhà Bá Kiến, một tên địa chủ cường hào lọc lõi khét tiếng độc ác, gian hùng. Cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng với những người lao động, Chí trở thành người nông dân lương thiện khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn. Anh canh điền giàu lòng tự trọng ây “biết không thích những cái gì mà người ta khinh”, từng khát khao “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Vậy mà, nghiệt ngã thay, cuộc đời đã không dành cho Chí những cái rất đỗi dung dị, bình thường ấy.
Chỉ vì cơn ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Mỉa mai thay, nhà tù, cái công cụ cải tạo con người của chế độ thực dân đã tiếp tay cho bọn phong kiến, cường hào địa chủ giết chết phần người trong Chí Phèo, biến hắn từ một người nông dân lương thiện thành tên lưu manh, bị loại bỏ ra ngoài xã hội con người. Đây là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người.
Trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo xuất hiện trong một bộ dạng thật kì quái: “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà lại rất câng câng, hai con mắt gườm gườm trông gớm chết”. Đó là mặt của “một con vật lạ”. Lại nữa, “hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ trông gớm chết”. Đó là hình hài của một kẻ côn đồ, hung hãn, chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau, Chí đã điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đểu. Nhưng, cụ Bá khôn róc đời đã ma mãnh cướp luôn của Chí cái quyền được trả thù kẻ có thù với mình. Chí Phèo lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá.
Từ đó, hắn chìm trong cơn say. Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Những năng lực vốn có của con người: năng lực cảm xúc, ý thức, hầu như bị tiêu huỷ, chỉ còn lại một năng lực đầm chém, phá phách trong những cơn say không bao giờ dứt. Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị huỷ hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại “đều sợ và tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua”. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ.
Người ta sẽ đỡ khổ nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu biết chính xã hội thực dân phong kiến chẳng những đã sinh ra Chí mà còn nuôi dưỡng tính côn đồ hung hãn của Chí bằng cách tước đoạt dần quyền làm người của Chí. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hoá, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước được trở lại làm người lương thiện. Vai trò, vị trí của Thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn” lại là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của Thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của Thị Nở đã gợi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất.
Sau cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở, Chí đã nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc, cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau. Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Vậy đó, chỉ cần một sự thương yêu – dù chỉ là tình thương yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hoá của tình thương quả là vô biên. Nam Cao đã thực sự hoá thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người, Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí trở lại làm người. Tình yêu của Thị Nở đã xây cho Chí một chiếc cầu nối để làm hoà với thế giới người.
Nhưng bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể thuộc về Chí. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa. Chí đau đớn nhận ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người. Xã hội đã cướp đi quyền được sống, được làm người của Chí và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả của bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn vạ…đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Chí đau xót nhận thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”. Lưỡi dao của Chí đã vung lên để tiêu diệt Bá Kiến và sau đó là kết liễu đời mình. Vậy là cuối cùng Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết thê thảm như một con vật của Chí là bi kịch lớn nhất của nhân vật này và cũng là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người.
Từ số phận nhân vật Chí Phèo, Nam cao muốn khái quát một hiện tượng phổ biến ở nông thôn ta trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh hoá. Đồng thời, qua đó, Nam Cao còn tỏ rõ sự đồng tinh với khát vọng lương thiện và lên án xã hội vô nhân đã vùi dập nhân tính làm tha hoá con người. Hơn nữa, nhà ván đã tìm thấy dưới đáy tâm hồn tưởng như cằn cỗi của người lao động của người lao động vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm. Từ đấy, vút lên một tiếng kêu khẩn thiết hãy cứu lấy con người. Điều ấy làm cho Nam Cao trở thành một trong những nhà nhân đạo lớn nhất, sâu sắc nhất của văn học hiện thực phê phán. Và “Chí Phèo” trở thành kiệt tác của nền văn học thế kỉ này.
Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với “xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện”. Đó cũng là lúc người đọc thấm thìa đến tận cùng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người thật quá phũ phàng, xa xót của Chí. Nỗi đau ấy cứ âm ỉ mãi khi mà cùng với thời gian, khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc mãi. Nỗi đau của Chí Phèo đã trở thành nỗi đau của toàn nhân loại. Ngòi bút của Nam Cao cứ sắc nhọn mãi cho đến tận bây giờ.
Trong giai đoạn văn học 1930-1945, chủ yếu các tác giả đều viết về số phận những người nông dân, nhưng mỗi người đều có lối viết, lối khai thác các nhân vật của riêng mình. Còn riêng Nam Cao, ông lại muốn tìm tòi, khai thác về nỗi khổ của những người nông dân lương thiện. Nam Cao sinh ra trong 1 gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, cả cuộc đời ông vất vả lận đận, ông là người giàu tình yêu thương, nặng ân tình đặc biệt là đối với những người nông dân nghèo khổ bị áp bức. Năm 1951, Nam Cao hy sinh, ông xứng đáng là 1 nhà văn- chiến sĩ, có thể coi là ngòi bút đại thụ của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm “Chí Phèo“ đã trải qua 3 lần đổi tên, nhan đề đầu tiên là “Cái lò gạch cũ“, sau khi được in thành sách nhà xuất bản đã tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi“, sau này, Nam Cao mới đổi lại tên thành “ Chí Phèo“, tác phẩm được coi là kiệt tác của nhà văn
Để hiểu rõ được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí phèo, người đọc phải hiểu được bi kịch là gì? Bi kịch là nỗi buồn, các nhà văn thường khai thác từ những mâu thuẫn xung đột gay gắt và thường kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính. Trong truyện ngắn “Chí phèo“, tác giả không chỉ đi sâu vào khai thác mâu thuẫn giai cấp mà còn khai thác cả mâu thuẫn trong chính nhân vật. Chí phèo được sinh ra là con người với đầy đủ các bản chất của 1 người bình thường, có dự định, ước mơ, là 1 người nông dân hiền lành lương thiện, biết phân biệt tốt xấu đúng sai. Nhưng rồi sau đó, Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, tha hóa, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loài người. Để rồi sau đó, khi hắn muốn quay trở lại làm 1 con người lương thiện thì lại bị từ chối phũ phàng và cuối cùng hắn chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời
Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị bỏ rơi, được 1 anh thả ống lươn nhặt được trong buổi sáng sớm tinh sương ở lò gạch bị bỏ không ngoài đồng vắng. Con người đến với cuộc đời như bị quăng ra đấy, bơ vơ, trơ trọi. May thay, nhờ sự cưu mang, đùm bọc của người dân làng Vũ Đại mà hắn đã được sống, được trở thành người nông dân hiền lành lương thiện, giàu tự trọng. Nhưng vì ghen tuông vu vơ mà lí Kiến đã đẩy hắn đi tù, nhà tù thực dân đã biến hắn trở thành kẻ “trông đặc như 1 thằng săng đá“ rồi sau đó bá Kiến thực hiện tốt công đoạn cuối cùng là biến Chí trở thành tay sai của mình. Chí Phèo bị lợi dụng, trở thành kẻ chuyên đi đâm thuê chém mướn, mỗi ngày hẳn bán rẻ linh hồn mình cho quỷ bằng vài đồng vài hào để rồi cuối cùng hắn biến mình thành 1 con quỷ thật sự “Nhìn mặt hắn người ta không đoán được là bao nhiêu tuổi, nó vàng vàng mà lại sạm màu gio, nó lằn ngang lằn dọc không biết bao nhiêu là vết sẹo“ rồi hắn còn suốt ngày sau rượu “cứ rượu vào là hắn chửi“.
Trong tiếng chửi lảm nhảm của Chí còn lã nỗi cô độc, hắn khao khát được giao tiếp với mọi người dù chỉ là tiếng chửi, nhưng chẳng ai đáp lại hẳn, chẳng đi chấp nhận hẳn, bởi vì “hắn đã đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu con người lương thiện“ Nhưng hắn làm nhiều điều ác như vậy bởi vì hắn lúc nào cũng say. Cũng viết về những người nông dân nhưng Nam Cao không khai thác theo lối mòn cũ là khổ vì sưu cao thuế nặng, khổ vì nghèo đói mà Nam Cao khai thác nỗi đau tinh thần của con người. Bị tàn phá mất nhân hình, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loài người.
Và có lẽ, cuộc đời hắn sẽ cứ như vậy nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở đã đến với hắn, cho hắn cảm nhận được tình yêu thương, cho hắn biết yêu và được yêu, lần đầu tiên hắn được “1 người đàn bà cho“. Hắn yêu thị, muốn làm nũng với thị như với mẹ, và lúc này hắn đã hoàn toàn tỉnh táo, phần linh hồn người của hắn đã trở về nhờ có thị Nở. “Chao ôi! Muốn làm hòa với mọi người biết bao“ hắn lập luận rất đơn giản là lại chặt chẽ, hắn hi vọng Thị nở sẽ là cầu nối cho hắn trở về với cuộc đời bằng phẳng lương thiện. “Thị Nở có thể sống yên ổn với hắn thì tại sao mọi người lại không thể, rồi mọi người sẽ thấy hắn chả làm hại ai rồi sẽ từ từ tiếp nhận hắn trở về với cuộc sống bằng phẳng“.
Hắn lại hy vọng, lại ước mơ về 1 gia đình hạnh mà có thị Nở. Nhưng hy vọng chẳng kéo dài được lâu, thị chợt nhớ ra ở nhà còn có 1 bà cô và thị muốn quay trở về để hỏi ý kiến bà cô. Nhưng bà cô đã không chấp nhận Chí bởi nghĩ hắn là thằng không cha không mẹ, suốt ngày chỉ đi ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Cầu nối đưa hắn đến với cuộc đời đã gãy, cánh của cuộc đời đóng sầm lại ngay trước mặt hắn. Ở đây, Nam Cao đã khéo léo lồng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người vào bị kịch bị cự tuyệt tình yêu. Nếu như lúc trước hắn khổ nhưng ít nhất lúc đó hẳn cũng say, không nhận thức được. Còn bây giờ hắn đã tỉnh, nỗi khổ nhân lên thành niềm thống khổ, chẳng còn 1 ai có thể đón hắn đến với cuộc đời nữa rồi
Tác giả đã sử dụng ngòi bút diễn tả tâm lí nhân vật bậc thầy, tác giả còn đưa cả ngòi bút của mình cho chính nhân vật, để nhân vật có thể tự nói lên được sự đau khổ. Lúc nghe thị trút hết tức giận lên đầu hắn, hẳn từ từ hiểu rồi “ngẩn người“, hắn hụt hẫng bàng hoàng, thoáng thấy 1 hương cháo hành thoảng qua mũi. Rồi khi thị đi, hắn đã nắm tay níu kéo thị, hắn níu kéo sợi dây cuối cùng cứu vớt cuộc đời hắn nhưng thị Nở lại dứt khoát tuyệt tình, hắn rơi vào tình trạng tuyệt vọng, hắn đau đớn mà khóc lóc. Rồi hắn lại tìm tới rượu, nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh, hương rượu hòa lẫn mới mùi thơm cháo hành khiến hắn càng đau đớn.
Rồi hắn quyết định vác dao ra đi, hăn lảm nhảm là sẽ đi tới nhà thị để giết bà cô nhưng cuối cùng hắn lại đi tới nhà bá Kiến, có lẽ bởi vì hắn ý thức được ai mới là người đẩy hắn tới nước này. Trước mặt tên cáo già bá Kiến, Chí đã nói những lời hoàn toàn tỉnh táo, dõng dạc “Tao muốn làm người lương thiện“, câu nói thể hiện được khát vọng muốn hoàn lương, trở về với xã hội loài người. Tuy nhiên, chính lúc này, Chí đã thấm thía được bi kịch của cuộc đời mình rằng hắn sẽ không bao giờ có thể quay trở về cuộc đời lương thiện được nữa rồi. Ai sẽ cho hắn lương thiện? Ai sẽ giúp hắn làm người lương thiện? Đau đớn căm thù kẻ đã hại mình, Chí rút dao ra, “chém túi bụi vào người bá Kiến“ rồi hắn cũng tự tử, Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời.
Có thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong việc khai thác nỗi khổ về mặt tinh thần, nỗi đau về thể xác của những người nông dân xưa. Kết hợp với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà sống động càng làm tôn lên tài năng của Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm lòng đồng cảm sâu sắc với bi kịch của nhân vật, niềm tin về bản chất hiền lành lương thiện của con người sẽ luôn còn đó. Hơn nữa, tác phẩm được viết lên như 1 lời kêu cứu, cứu lấy quyền làm người, cứu lấy quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc lứa đôi của con người.
Chí Phèo một trong những đỉnh cao của Nam Cao, cũng như của văn học hiện thực Việt Nam viết về đề tài người nông dân. Nhân vật chính của truyện ngắn là Chí Phèo, từ một người nông dân lương thiện, hiền lành, chất phác, Chí Phèo đã bị tầng lớp thống trị và nhà tù thực dân làm cho tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân tính. Nhưng bản chất lương thiện trong chí vẫn luôn tồn tại. Quá trình đó đã được Nam Cao mô tả bằng ngòi bút hết sức tinh tế và tài hoa.
Chí Phèo sinh ra đã là một đứa trẻ bất hạnh, vừa cất tiếng khóc chào đời đã bị mẹ bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, Chí được anh thả ống lươn mang về nuôi, sau đó chuyển qua bà góa mù, rồi bác phó cối. Chí Phèo lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của dân làng. Mặc dù phải sống lang bạt, nhưng Chí Phèo khi lớn lên vẫn là con người hết sức lương thiện. Chí đi làm thuê ở gia đình bá Kiến, và trong cuộc sống thanh bình đó, Chí đã từng mang trong mình mơ ước, có một gia đình nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, nếu có tiền thì mua mảnh đất để làm. Mơ ước thật bình dị, nhỏ bé, đó là mơ ước của bất cứ người nông dân nào. Họ chỉ mong muốn có cuộc sống bình yên, giản dị.
Nhưng cuộc đời đối với Chí lại không bằng phẳng như thế. Làm việc tại nhà bá Kiến, Chí bị bà ba để ý, bắt bóp chân, điều đó làm Bá Kiến vô cùng căm hận, hắn ta từng mong muốn bỏ tù tất cả những thằng trai trẻ ở làng. Và Chí Phèo là một trong những nạn nhân của cơn ghen cuồng mù quáng ấy. Chính bọn cầm quyền và nhà tù thực dân đã nhào nặn, biến hóa một người nông dân chân chất, hiền lành trở thành một kẻ tha hóa cả về nhân hình và nhân tính.
Sau bảy tám năm đi tù về, Chí Phèo biến đổi hẳn về ngoại hình, trông hắn như thằng săng đá, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt câng câng, người xăm trổ đầy hình trông đến gớm. Hình hài hiền lành của Chí đã bị phá hủy. Không chỉ vậy, nhân tính của hắn cũng bị đập nát. Hắn trở về lấy nghề rạch mặt ăn vạ để sống qua ngày. Ngày đầu tiên ra tù, hắn đến ngay nhà bá Kiến để ăn vạ, nhưng nào ngờ lại bị những lời phỉnh nịnh của tên cáo già ru ngủ, Chí Phèo trở thành tay sai của bá Kiến. Chỉ cần có hơi men Chí Phèo có thể làm bất cứ việc gì được sai khiến: đốt nhà, giết người,… Chí Phèo đã phá hủy hạnh phúc biết bao gia đình, hắn ta trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Người ta tránh Chí như tránh hủi, mọi lời hắn chửi người ta luôn tự nhủ thầm hắn chừa mình ra. Tiếng chửi phẫn uất của Chí là một hình thức giao tiếp đặc biệt, một niềm khao khát tột cùng được giao tiếp, được hòa nhập cùng với cuộc sống của con người. Sự tha hóa của Chí Phèo không phải là một điều ngẫu nhiên mà nó là hệ quả tất yếu, là con đẻ của xã hội thực dân phi nhân tính đã hủy hoại không chỉ hình dáng mà còn hủy hoại nhân phẩm của con người.
Nhưng cuộc đời Chí chưa dừng lại ở đó, gặp Thị Nở như một cột mốc đánh dấu và cho Chí biết rằng bản thân mình vẫn chưa tha hóa đến độ mất đi hoàn toàn nhân tính. Trong một lần say rượu, tình yêu giữa Chí Phèo và thị Nở nảy sinh, Chí Phèo ốm và nhận thức ra rất nhiều điều về cuộc sống về chính bản thân mình. Chí nghe thấy những âm thanh quen thuộc, mà bấy lâu nay trong hơi men hắn không còn nghe thấy nữa, hắn nhớ về mơ ước nhỏ bé giản dị của mình và đau đớn nhận ra mình đã đi sang cái dốc bên kia của cuộc đời mà vẫn cô đơn. Nào chỉ cô đơn không thôi, hắn còn bị cả xã hội gạt ra ngoài lề, coi như một con quỷ chứ không phải là một con người. Lần đầu tiên hắn biết đến vị cháo hành và nhận ra nó ngon đến kì lạ: “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo hành?”. Hắn nhìn thị Nở bằng đôi mắt thật hiền, đôi mắt hàm ơn và đôi mắt rơm rớm nước. Giọt nước mắt này chính là giọt nước mắt đánh dấu sự trở về của nhân tính trong Chí. Chí không chỉ nhận thức được về bản thân mà còn dấy lên khao khát hạnh phúc, thèm được làm hòa với mọi người: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Và chính Thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn được trở về hòa nhập với cộng đồng. Như vậy phần nhân tính trong Chí chưa bao giờ bị mất đi, nó chỉ bị những cái độc ác, xấu xa của xã hội che khuất mất, chỉ cần có tình yêu thương, sự bao dung tất yếu phần người ấy sẽ quay trở về. Khao khát được làm người lương thiện, được hòa nhập với mọi người là khát khao, mong ước chính đáng của Chí Phèo.
Nhưng cuộc đời thật biết trêu đùa với Chí, ngay khi phần nhân tính trở về thì Chí một lần nữa bị cự tuyệt quyền làm người. Thị Nở nghe lời của bà cô, đã đến nhà Chí mà sỗ sàng nói thẳng vào mặt, nó như một gáo nước lạnh, dội thẳng vào ngọn lửa hi vọng của Chí. Đau đớn, tuyệt vọng Chí xách dao vào mục đích ban đầu đến giết chết cả nhà con Nở, nhưng vì quen chân, vì Chí đã mơ hồ nhận ra kẻ thù của mình, nên Chí Phèo đã đến nhà bá Kiến. Hắn cao giọng đòi lương thiện, nhưng đồng thời Chí cũng nhận thức rõ: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa?”. Rồi hắn rút dao giết chết bá Kiến và tự kết liễu chính mình. Cái chết của Chí là biểu hiện cao nhất khi nhân tính không bị mất đi. Nhân tính khi đã quay trở lại không cho phép Chí Phèo tiếp tục làm nghề rạch mặt ăn vạ, không cho phép Chí làm con quỷ dữ của làng Vũ Đại nữa. Nhưng đồng thời Chí cũng không thể quay trở lại với xã hội, vì đã bị mọi người cự tuyệt. Cái chết là lựa chọn duy nhất để bảo tồn chút nhân tính ít ỏi không bị ăn mòn bởi những bất công của cuộc đời. Cái chết của Chí là một đòn mạnh mẽ, lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời đã đẩy con người vào bước đường cùng.
Xây dựng quá trình từ lương thiện đến tha hóa đến sự trở về của nhân tính trong nhân vật Chí Phèo cho thấy nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật miêu tả tâm lí bậc thầy trong ngòi bút của Nam Cao. Nghệ thuật trần thuật đảo ngược thời gian gây ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc. Ngôn ngữ giản dị mà hàm súc, sâu sắc.
Qua quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã bộc lộ niềm cảm thương sâu sắc với số phận của những người nông dân bất hạnh, bị đẩy đến bước đường cùng bị tha hóa. Nhưng đồng thời cũng thể hiện niềm tin tưởng của Nam Cao vào nhân cách, thiện tính trong người nông dân hiền lành, chất phác. Không chỉ vậy, còn là tiếng nói phê phán sâu sắc với chế độ thực dân nửa phong kiến đương thời đã đẩy con người đến bước đường cùng. Tác phẩm để lại giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc.
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản ánh vô cùng mạnh mẽ.
Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.
– Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
– Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo, quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó. Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất. Nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. Chí Phèo ngạc nhiên, xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hành là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn.
Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỷ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của Chí Phèo.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí Phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.
“Không được! Ai cho tao lương thiện!”, chính là câu nói đầy đớn đau kết thúc một số phận con người bị tha hóa dưới chế độ phong kiến, kết thúc một tác phẩm truyện ngắn đầy ám ảnh về xã hội và người nông dân Việt Nam dưới chế độ cũ. Trước cách mạng tháng 8, đề tài người nông dân và trí thức tiểu tư sản cũ luôn là một đề tài có nhiều sức hút với nhiều các tác giả, trở thành chủ đề chính làm nên tên tuổi của nhiều tác giả nổi tiếng ví như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Kim Lân,… Trong đó người ta đặc biệt chú ý đến một nhà văn có vóc người mảnh khảnh, nhỏ bé, khuôn mặt hiền từ, thế nhưng ngòi bút, giọng văn thì lại sắc bén, lạnh lùng và đau đớn ấy là Nam Cao. Chí Phèo của Nam Cao không đơn thuần là những cái khổ nạn do sưu thuế, không phải cái sự thiếu ăn thiếu mặc thông thường, mà nó là bi kịch của cả cuộc đời người nông dân vốn hiền lành, tốt tính, cuối cùng lại bị cái xã hội thối nát đày đọa, giày xéo cả về thể xác lẫn tâm hồn, giết chết cái bản chất thiên lương và trả lại cho con người khốn khổ ấy hình hài và nhận thức của một con gì không giống người – con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Thiết nghĩ sự sa đọa và tha hóa của Chí Phèo, hay nói đúng hơn là bi kịch của hắn vốn dĩ đã bắt đầu kể từ khi hắn lọt lòng. Chí Phèo chưa từng được sống những ngày tháng sung sướng, ấm áp thật sự kể cả trước và sau tha hóa. Mang thân phận một đứa trẻ mồ côi, bị người ta nhẫn tâm bỏ lại cái lò gạch cũ vì không nuôi nấng được, cuối cùng bị trao tay, bị bán cho hết người này đến người kia, rồi lớn lên trong sự chung tay đùm bọc của cả làng Vũ Đại. Đó chẳng phải là cảnh gì sung sướng, bởi cuối cùng đối với mọi người anh Chí vẫn là đứa trẻ không có cha mẹ dạy dỗ, là giống nghiệt chủng. Còn với anh đó là sự tổn thương, lạnh lẽo từ tấm bé, chẳng biết sữa mẹ cũng chẳng thấm hơi cha, Chí Phèo đã phải vật lộn với cuộc đời từ lúc mới mở mắt, đó thực là một bất hạnh lớn. Thế nhưng thật may mắn làm sao khi cái cuộc đời chông chênh, hay cái khốn khổ mồ côi nó vẫn không thể chiến thắng được bản tính thiên lương trong con người Chí. 20 năm sau, anh đã trở thành một người nông dân chất phác, hiền lành, lại chăm chỉ làm ăn, anh cũng có những cái ước mơ thật dung dị, đời thường, mong cảnh điền viên gia đình chồng cày cuốc, vợ dệt vải, tậu vài mảnh đất, nuôi lấy con lợn. Chỉ nhiêu đấy thôi cũng đủ khiến anh ham muốn phấn đấu lao động, nhưng vì nghèo khó, không ruộng đất nên anh đành đi làm canh điền thuê cho nhà Bá Kiến. Khốn khổ, chính cái vẻ trẻ khỏe, sung sức, sự hiền lành, tốt tính của anh đã trở thành cái họa cho anh, một bà ba lẳng lơ luôn tìm cách gạ gẫm, một tên Bá Kiến bất lực trước sự ngang ngược của vợ, lại có máu ghen tuông điên cuồng, đã hại một đời anh Chí. Anh có làm gì sai đâu, vợ của người ta anh nào dám đụng vào, mà cũng chẳng thèm đụng vào, bởi“Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. người ta không thích cái gì người ta khinh”. Thế nhưng cái tâm tính tốt đẹp, cái lòng tự trọng ấy của Chí, hình như nó chẳng có tác động gì đến sự tàn ác của tầng lớp trên, Bá Kiến vẫn tống anh vào tù, bà ba vẫn thản nhiên như không. Cuộc đời của Chí và những ước mơ tầm thường, dung dị đến bây giờ có lẽ đã hoàn toàn vô vọng. Đôi lúc người ta bảo, chẳng phải chỉ là vào tù dăm ba năm rồi lại ra, vô đó người ta được cải tạo để tốt hơn ấy chứ. Nhưng không! Đây là nhà tù thực dân, là cái nhà tù ăn thịt người không bỏ lại xương, nó đã bằng cách nào ấy nuốt chửng lấy cái lương thiện, đẹp đẽ của anh Chí, rồi trả lại cho đời một thằng Chí Phèo, lưu manh cả về nhân hình lẫn nhân phẩm.
Ngày anh trở về người dân làng Vũ Đại đã không còn nhận ra một anh Chí hiền lành, chất phác nữa, người ta cứ ngờ ngợ, cứ chỉ trỏ, người ta không nắm chắc, nhưng người ta thấy khiếp sợ, kinh hãi với bộ dạng của một con người vừa bước chân ra khỏi nhà tù “trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Thật khủng khiếp khi có cái nhà tù nào mà lại khiến người ta từ một người tử tế, sáng sủa, biết liêm sỉ, tự trọng và luôn ấp ủ những ước mơ cao đẹp trở thành một kẻ đặc những dáng hình lưu manh, đầu đường xó chợ, cái sự “cải tạo” của nhà tù thực dân khi ấy phải cắt nghĩa thành tha hóa thì nó mới lại đúng với bản chất thật. Nếu như sự tha hóa về nhân hình của Chí Phèo mới chỉ khiến người ta lắc đầu ái ngại hay e dè, thì ôi thôi cái sự tha hóa về nhân phẩm mới lại khiến người ta cảm thấy sụp đổ, Chí Phèo thực sự là một tên lưu manh không nghi ngờ gì nữa. Anh Chí của 7, 8 năm về trước chỉ biết chăm chỉ làm ăn, còn Chí Phèo ngày nay vừa mới ra tù đã đi thẳng tới chợ oánh chén thịt chó và say khướt với rượu chè từ trưa tới tận chiều tối. Nhưng nếu anh chỉ thích ăn thịt chó hay uống rượu, thì nó hãy còn là phúc, đằng này người ta còn bất ngờ hơn khi anh dẫn cơn say của mình tới nhà Bá Kiến – kẻ đã tống anh vào tù, để ăn vạ. Thoạt đầu anh chửi “gọi tận tên tục ra mà chửi”, cả nhà với đám đàn bà chỉ biết lấp ló nghe hắn chửi sau cánh cửa, “thành thử chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu”, Chí Phèo thế mà khốn đốn đến mức chỉ được sánh ngang với loài chó, tiếng người và tiếng chó ngang sau, nghĩ mà thấy đau đớn, xót xa. Chửi mãi, rồi một vị chủ nhân cũng về là Lý Cường, con trai Bá Kiến, tên này còn trẻ, lại háo thắng làm gì được khôn ngoan như ông cha của hắn, thành ra hắn đâm đầu vào đánh nhau với Chí Phèo. Bản thân Chí Phèo thì làm gì có cửa tay đôi với Lý Cường, thế nên hắn đã làm ra một hành động gây sửng sốt và bàng hoàng cho cả một đám người vây xem. Chí Phèo đập nát chai rượu rồi lấy mảnh sành cứa từng nhát lên mặt mình, để máu me chảy lênh láng mà chẳng biết đau là gì rồi lăn lộn ăn vạ “Ối làng nước ơi! Cứu tôi với… Ối làng nước ôi! Bố con thằng bá Kiến nó đâm chết tôi! Thằng lý Cường nó đâm chết tôi rồi, làng nước ôi!…”. Một anh Chí quân tử, đi tù 7, 8 năm về bỗng chốc biến thành kẻ tiểu nhân ti tiện và cũng biết chút thủ đoạn, nhưng cái thủ đoạn này nó lại tàn nhẫn và ghê gớm với bản thân hắn quá. Cuối cùng cái sự ăn vạ của anh cũng lọt vào mắt Bá Kiến, một tên gian manh, cáo già, hắn lại quá hiểu những con người như Chí Phèo, bởi trước đây cái làng này cũng đã từng có những tên cứng đầu cứng cổ như thế, nhưng cuối cùng cũng một tay lão dàn xếp nào Năm Thọ, binh Chức,… Với những tên thích làm liều, dốt học và cốt chỉ cần mấy đồng tiền tiêu sài uống rượu thì Bá Kiến có nhiều cách để trị lắm. Và tốt nhất là biến chúng thành tay sai cho lão, chính vì vậy cái sự ít học, căm tức, bất mãn của Chí Phèo đã trở thành thứ dầu mỡ bôi trơn, đẩy Chí Phèo trượt dài trên con đường tha hóa. Bằng vào lời dỗ ngon ngọt, và mấy đồng xu lẻ, Bá Kiến đã dễ dàng mua chuộc Chí Phèo trở thành kẻ đâm thuê chém mướn cho hắn. Còn bản thân Chí thì ngu ngơ, quên hết cả những tội ác mà Bá Kiến đã gây ra cho mình năm xưa, để dấn thân vào con đường tội lỗi, bán rẻ nhân cách lấy vài đồng tiền lẻ uống rượu. Từ ngày ấy trở đi, người ta không còn thấy một Chí Phèo lưu manh nữa, mà người ta thấy một thứ còn khủng khiếp hơn, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Trong mắt người đời Chí Phèo chẳng phải là con người nữa, mà là một “con vật lạ”, với cái khuôn mặt “vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo”, nghĩ mà xót xa, bởi trước đây Chí Phèo vốn đâu có đổ đốn thế, một chàng trai được bà ba để ý thì rõ ràng cái nhân hình nó cũng phải tốt đẹp lắm chứ. Thật đáng hận, không phải chỉ bởi sự mù quáng của Chí Phèo, mà còn là cái thế lực tàn ác của chế độ phong kiến tay sai đã rắp tâm dồn hắn vào con đường không lối thoát, tước đoạt đi của Chí cái quyền được sống như một con người. Biến hắn thành một kẻ triền miên với rượu chè “cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Rồi trong cơn say không tỉnh suốt mười mấy năm trời ấy Chí Phèo đã làm bao nhiêu cái việc thất đức, tay hắn đã nhuốm máu của bao nhiêu người, chắc chính bản thân hắn cũng chẳng biết, chẳng đếm và cũng chẳng dám đếm bởi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!”. Sự gian xảo, độc ác của Bá Kiến đã lấy đi của Chí Phèo gần 20 năm cuộc đời trong sạch và lương thiện sau đó lại giả vờ đền bù cho anh bằng những đồng tiền bẩn thỉu, những ca rượu đầy, cùng những lời sai khiến ma quỷ. Mà người ta được có mấy lần 20 năm ấy đâu, Chí Phèo đã sống 20 năm đầu trong sự mồ côi, đơn độc, 20 năm sau trong sự tha hóa, ghê sợ của người làng, liệu 20 năm tiếp sẽ là gì? Chưa ai biết, người ta chỉ biết rằng, thằng Chí Phèo ấy là một thứ đáng kinh tởm, nó lại còn thích chửi bới, riết rồi người ta chẳng còn thèm quan tâm nó chửi cái gì nữa. Nhưng đọc mãi những tiếng chửi của Chí Phèo, người ta mới biết rằng hắn sống 20 năm ấy đã lạnh lẽo, cô độc như thế nào, hắn thèm khát được giao tiếp, thèm khát được nói những thứ chuyện mà người ta vẫn nói với nhau, nhưng ai cũng xa lánh hắn, ai cũng sợ hãi trốn như trốn hủi. Bí quá hắn đành chửi, một là xả hết cái uất ức, căm phẫn trong lòng về cái cuộc đời khốn nạn, hai là mong sao có ai đó đứng ra chửi nhau với hắn cũng tốt, để ít ra rằng hắn còn biết được mình vẫn đang sống trong thế giới loài người, chứ chẳng phải là “con vật lạ” nào hết!
Cuộc gặp gỡ định mệnh với Thị Nở là bước ngoặt lớn mà Chí Phèo không thể ngờ tới, đồng thời nó cũng là cánh cửa dẫn Chí Phèo đến tột cùng của tuyệt vọng. Một người đàn bà tuy xấu xí, ế chồng và dở hơi thế nhưng lại có những tình thương rất mộc mạc chân thành, như một người mẹ, một người yêu, cho Chí cảm nhận được sự ấm áp từ tình người. Từ ấy Chí Phèo thức tỉnh, hắn khao khát làm sao một mái ấm, một cuộc đời bình yên lương thiện và Thị Nở chính là người sẽ dắt hắn ra khỏi cái thế giới u tối và đưa hắn về lại thế giới loài người. Có thể nói rằng mãi sau 20 năm Chí Phèo mới lại có những ngày tỉnh rượu và bừng lên những hy vọng mạnh mẽ, tươi sáng đến thế. Nhưng thật đớn đau, xã hội đầy định kiến và những sai lầm của hắn trong quá khứ nào có thể vì một tình yêu mới nảy nở mà bỗng chốc được xóa tan. Lời bà cô của Thị Nở, lời của một người đàn bà ế chỏng trơ, thật cay nghiệt và thấm thía “Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Đấy họ đã nhẫn tâm vạch ra cái tha hóa ghê tởm của hắn và cắt đứt hết mọi hy vọng hoàn lương của hắn, Chí Phèo nhận thức rõ ràng rằng, cái xã hội này vốn đã không còn chốn dung thân cho hắn nữa, người ta đã khinh ghét và đẩy hắn đến chỗ loài súc sinh chứ không coi hắn là người cần được yêu thương, chung sống nữa. Mà nguyên nhân tất cả là tại tên Bá Kiến độc ác, kẻ đã từng bước đưa hắn đến bờ vực tuyệt vọng như ngày hôm nay. Kết truyện Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự tử,cái chết của hai kẻ ấy khiến cả làng thở phào nhẹ nhõm, không một sự bồi hồi, thương tiếc. Mà câu nói “Không được!Ai cho tao lương thiện” của Chí trước lúc lìa đời lại khiến người ta phải ám ảnh, đau đớn không thôi.
Đã gần 80 năm qua đi, nhưng những trang sách của Nam Cao, những bi kịch của Chí Phèo vẫn khiến người ta không khỏi thổn thức đau đớn. Rõ ràng đó không phải là bi kịch của riêng một mình nhân vật này mà là bi kịch của cả một tầng lớp, một giai cấp giữa cái thời buổi tây ta lẫn lộn. Lưng người nông dân phải gánh một lúc cả sự chèn ép của phong kiến lẫn đế quốc, ép đến nỗi người ta phải tha hóa, phải từ bỏ lương thiện, từ bỏ lương tâm, phải chấp nhận trượt dài trên con đường tội lỗi. Để rồi đến khi họ muốn quay lại, thì đã không còn đường nữa, chẳng khác nào kẻ dưới vực thẳm ngước nhìn trời cao trong tuyệt vọng và đớn đau.
Nam Cao là cây bút vàng trong làng truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông nổi tiếng với những tác phẩm viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Nếu như đến với hình ảnh người nông dân trong các tác phẩm của các nhà văn hiện thực khác như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan … nông dân chỉ hiện lên với những áp bức bất công, bị dồn đến bước đường cùng, nhưng sau cùng họ vẫn còn giữ được bản chất tốt đẹp trong con người mình. Nhưng ở Nam, người nông dân đã bi kịch đến mức bần cùng hóa, lưu manh hóa, bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân. Và bi kịch đến mức lưu manh hoá, bị cự tuyệt quyền làm người ấy được thể hiện rõ nét qua nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.
Mở đầu tác phẩm, Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh vô cùng độc đáo “hắn vừa đi vừa chửi”. Tiếng chửi của một kẻ say rượu như vô tình mà lại hữu ý. Ban đầu hắn chửi trời rồi đến chửi đời, tức mình, hắn chửi ngay làng Vũ Đại… nhưng đối tượng của những tiếng chửi này là mơ hồ không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này… thì đối tượng đã được xác định.
Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến bi kịch của bản thân. Hắn cấy tiếng chửi để khát khao, thèm mong có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà, đau đớn thay, không người nào chịu chửi lại hắn. Điều ấy có nghĩa là tất cả mọi người đã không còn coi hắn là con người nữa. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, còn bằng lòng giao tiếp đối thoại với hắn nhưng ở đây lại không một ai tiếp lời hắn.
Thế nhưng “hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu”. Bằng cách mở đầu truyện độc đáo thế này, tác giả không chỉ giới thiệu mà còn bắt đầu hé mở cho người đọc thấy số phận bi thảm của nhân vật, đó là số phận người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người.
Chí Phèo là một con người bất hạnh. Hắn là một đứa trẻ mồ côi không cha, không mẹ được người dân làng Vũ Đại truyền tay nhau nuôi lớn. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu cho số phận bất hạnh của anh Chí. Khi lớn lãnh đi ở cho nhà Bá Kiến rồi vì ghen tuông mù quáng, Bá Kiến đã đẩy anh vào tù hơn nữa, “trong cái xã hội ấy, người ta có thể bị đẩy vào tù bằng bất cứ lí do gì”.
Nhà tù thực dân đã nhanh chóng biến anh Chí ngày nào trở thành một tên côn đồ, một tên lưu manh ngay từ dáng vẻ bên ngoài mà nhà văn Nam Cao đã viết “trông gớm chết”. Khi miêu tả bộ dạng của anh ta sau bảy, tám năm ở tù về, tác giả Nam Cao viết ”Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mắt gườm gườm, cái mặt rất câng câng, mặc cái áo tây vàng, cái quần nái đen, ngực và cánh tay trạm trổ đầy những ông tướng cầm chùy…” Người ta không còn nhận ra anh canh điền hiền lành, lương thiện ngày nào nữa.
Nhưng đó mới chỉ là sự biến đổi ở nhân hình của anh, dáng vẻ ấy còn chưa khiến họ cảm thấy bắt đầu sợ Chí, kinh hãi Chí và hoàn toàn xa lánh Chí cho đến khi hắn dần dần có những hành động mất hết nhân tính. Ngày nào người ta cũng thấy hắn say. Hắn lảo đảo xách chai đến nhà Bá Kiến mà chửi bới, mà ăn vạ. Ban đầu, Chí chỉ làm trong vô thức, say để chửi Bá Kiến nhưng dần dần say để vòi vĩnh, để đòi lợi ích cho bản thân.
Và rồi dần dần, Chí Phèo trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến. Bao nhiêu gia đình tan hoang bởi Chí. Hắn chìm trong những cơn say triền miên với những tiếng chửi bới và đặc biệt nổi tiếng bởi cái nghề rạch mặt ăn vạ.. Chẳng biết tự lúc nào Chí đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Từ việc bị đẩy nhưng rồi Chí tự trượt dài trên cái dốc của sự tha hóa. Chí mất hết tính người và người làng Vũ Đại cũng chẳng ai coi Chí là người nữa, hắn như con quỷ dữ của cái làng Vũ đại này vậy.
Vì thế cho nên những gì Chí Phèo làm ngay từ khi mở đầu tác phẩm đó là chửi nhưng cũng chẳng ai thèm đáp trả tiếng chửi của hắn. Sự tha hóa của Chí Phèo là một sự phản ánh chân thực, nghiệt ngã nhất về xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đồng thời cũng là lời tố cáo mạnh mẽ những kẻ tàn nhẫn, độc ác đã cố tình đẩy Chí và lợi dụng Chí để biến anh thành con quỷ của làng Vũ Đại. Chân dung ấy của anh chính là hiện thân cho nỗi thống khổ lớn nhất của người nông dân trong xã hội lúc bây giờ.
Tưởng rằng cuộc đời Chí Phèo sẽ mãi đắm chìm trong bóng tối của kiếp sống tội lỗi, nhưng không. sự xuất hiện Thị Nở đã đưa Chí Phèo từ vực sâu của kiếp sống lưu manh tha hóa đến bến bờ của sự hoàn lương. Thị Nở cùng bát cháo hành của Thị đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người nhân hậu.
Người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn kia lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại biết được một con người khác mà mọi người không thấy ở Chí Phèo “sao có lúc nó hiền đến thế”. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm của tình người đã làm cho con người lương thiện bấy lâu đã ngủ quên dần trỗi dậy trong Chí Phèo.
Sau khi con người lương thiện trong hắn được đánh thức, Chí Phèo bỗng nghe thấy được những âm thanh bình dị mộc mạc ngày nào cũng có mà mãi đến hôm nay hắn mới nghe thấy được. Chí bỗng hồi tưởng về ngày xưa, khi mà hắn cũng có những ước mơ nhỏ “Ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm…”.
Đáng lẽ ra hắn phải có được một cuộc sống bình thường như bao người khác chứ không phải bây giờ ngồi mới thấy bản thân đã già, đã sang đến cái dốc bên kia của cuộc đời rồi mà vẫn còn cô độc. Rồi hắn nghĩ về tuổi ra, đói rét và cô đơn, hắn sợ sự cô đơn hơn cả. Nhưng những giây phút được yêu của Chí Phèo thật ngắn ngủi, hạnh phúc vừa hé mở đã phải khép lại.
Chí Phèo đã bị từ chối phũ phàng bởi định kiến xã hội mà bà cô Thị Nở hay cũng chính là những định kiến mà xã hội này dành cho hắn. Đối diện với hiện thực nghiệt ngã, Chí Phèo mới giật mình và nhận thức một cách sâu sắc hơn, rằng hắn đã bị tất cả mọi người quay lưng và hắn không thể trở thành người lương thiện trong con mắt mọi người được nữa.
Khi con người lương thiện trong Chí Phèo đã thức tỉnh thì hắn lại càng khao khát được làm người hơn bao giờ hết. Nhưng khao khát vẫn chỉ là khao khát, khát vọng làm người trong hắn vừa được nhen nhóm lên đã bị cự tuyệt hoàn toàn. Chí lại trở về với sự cô độc, đau đớn, xót xa khi nhận ra mình đã không còn đường về quay trở lại: “Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này?”.
Đó chính là sự tự ý thức của Chí Phèo về bi kịch của bản thân mình. Hình ảnh những vết mảnh chai trên mặt chính là dấu vết của những năm tháng tội lỗi của hắn. Những vết sẹo hằn sâu trên mặt hắn cũng như một thằng Chí chuyên rạch mặt anh vạ đã hằn sâu trong tâm trí của người dân làng Vũ Đại và trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với họ. Trong con mắt của mọi người, Chí Phèo là con quỷ dữ.
Chính những định kiến đã ngăn cản bước chân của Chí Phèo tìm về với cõi đời lương thiện.Hơn ai hết, Thị Nở là người đem lại cho Chí Phèo hơi ấm của tình người, tình yêu, nhưng chính Thị Nở cũng là người đẩy Chí Phèo đến bờ vực của cái chết. Và cuối cùng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách của mình Chí Phèo cầm dao đâm chết Bá Kiến – kẻ thù lớn nhất của đời mình, người đã khiến hắn ra nông nỗi này rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa chọn một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó lại là cách duy nhất để con người lương thiện trong Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn lại.
Quá trình lưu manh hoá của Chí Phèo hay cũng chính là bi kịch bần cùng hoá của những người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám đã tố cáo sâu sắc xã hội nửa phong kiến, nửa thực dân áp bức bóc lột. Chí Phèo đã chết, nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy và tỏ sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng thời cũng là sự thể hiện rõ ràng nhất của tư tưởng nhân đạo và tinh thần nhân văn của ngòi bút Nam Cao.
Nam Cao là một nhà văn lớn của dân tộc đã để lại bao tác phẩm hay mang cả giá trị nội dung và giá trị nhân đạo sâu sắc. Ông là người có tấm lòng nhân hậu chan chứa tình yêu thương và gắn bó với quê hương. Vì vậy, ta có thể thấy cảm hứng chủ đạo của ông qua nhiều tác phẩm đó là hình tượng người nông dân. Một trong những tác phẩm để lại ấn tượng nhất trong lòng người đọc là Chí Phèo. Tác phẩm đã nói lên một thời kì biến động của đất nước, những người thấp cổ bé họng đã bị đày vào bước đường cùng, từ một người lương thiện bị tha hóa trở thành lưu manh như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Nam Cao đã diễn tả quá trình tha hóa của Chí Phèo từ anh nông dân lương thiện trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
Chí Phèo có số phận bất hạnh khi còn nhỏ, hắn bị bỏ rơi ở một lò gạch cũ, rồi được người dân trong làng truyền tay nhau nuôi. Sau khi trưởng thành hắn là người nông dân lương thiện, làm canh điền cho Bá Kiến. Khi bị bà Ba gọi vào bóp chân hắn cảm thấy nhục nhã chứ chẳng vui sướng gì. Rồi văn bị Bá Kiến ghen đẩy vào tù oan. Sau khi ra tù thì lại trở thành một con quỷ dữ.
Mở đầu cho tác phẩm đã nghe được tiếng chửi của Chí Phèo, hắn “chửi trời” rồi “chửi đời”, chửi tất cả làng Vũ Đại”, “chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”, hắn chửi cả “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn”. Hắn uống rượu rồi ăn vạ rồi chửi, nhưng không ai quan tâm, ai cũng tự nhủ “chắc nó trừ mình ra”
Sau 7, 8 năm thì Chí Phèo ra tù, nhà tù Phong Kiến đã làm hắn trở thành một con quỷ dữ mất nhân hình lẫn nhân tình. Về nhân hình thì hắn “trông như thằng săng đá! cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết!. Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Không những nhân hình mà nhân tình hắn cũng mất, hắn suốt ngày uống say rồi vạch mặt ăn vạ, hắn làm bạn với rượu chè. Những người trong làng vì thế cũng sợ hắn và xa lánh hắn. Hắn trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” lúc nào mà không hay. Hắn luôn đến nhà Bá Kiến ăn vạ, sau hai lần ăn vạ hắn đã làm tay sai cho Bá Kiến, hắn càng ngày càng hung hãn, ngang ngược và triền miên say. Chí Phèo đánh mất nhân hình lẫn nhân tính, điển hình cho hình ảnh người nông dân lao động bị đè nén là nhân chứng tố cáo chế độ thực dân phong kiến cướp đi quyền làm người của Chí.
Sau khi Chí Phèo rẽ vào nhà Tự Lãng cùng uống rượu, hắn đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, hắn đã gặp Thị Mở và họ cùng ăn nằm với nhau. Sự xuất hiện của Thị Nở làm sống dậy những cảm xúc con người trong Chí Phèo. Sau khi thức tỉnh hắn đã nhận thức được mọi âm thanh trong cuộc sống “tiếng chim hát ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đưa cá”. Hắn lại nao nao buồn, hắn nhớ có một thời hắn đã mơ ước rất giản dị “có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Hắn đã thấy hắn già mà vẫn cô độc, tương lai đối với hắn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”. Hắn cũng đã ý thức được việc mình làm là sai, hắn thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người và Thị chính là cánh tay đưa Chí trở về.
Nồi cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa trong tác phẩm. Nồi cháo hành đã giúp Chí thức tỉnh hoàn toàn cùng chính nồi cháo hành là chứng minh cho tình yêu của hai người. Tình yêu mộc mạc và chân thành của người đàn dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo. Chí đang đứng trước tình huống có lối thoát là con đường trở về với cuộc sống loài người. Đây là cái nhìn đầy chiều sâu của nhân đạo của Nam Cao.
Nhưng rồi Chí Phèo bị Thị Nở cự tuyệt bởi bà cô của Thị Nở không đồng ý. Hắn đã ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở sau đó ngẩn người, chạy theo nắm lấy tay Thị nhưng lại bị Thị xô ngã, lúc này Chí thấy hơi cháo hành nhưng tuyệt vọng. Trong cơn tuyệt vọng, Chí uống rượu xách dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Câu nói của hắn hằn lên thù hận “Không được! Ai cho tao lương thiện? làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! chỉ còn một cách… Biết không!… Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!…” và hắn đã đâm chết Bá Kiến rồi tự vẫn. Hành động này là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống. Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống con người.
Nam Cao đã xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nghệ thuật miêu tâm lí nhân vật sắc sảo. Ngôn ngữ giản dị, diễn đạt độc đáo. “Chí Phèo” tố cáo mạnh mẽ xã hội thuộc địa phong kiến tàn bạo đã cướp đi nhân hình lẫn nhân tính của người nông dân lương thiện. Đồng thời nhà văn phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi họ đã biến thành quỷ dữ.