/tmp/gwmrq.jpg
Nội dung bài viết
Bài văn Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù gồm dàn ý chi tiết, 5 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 11.
Đề bài: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
I. Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Tuân là một nhà văn có “tính tài hoa và cái giọng khinh bạc đệ nhất trong giới Việt Nam hiện đại”.
+ “Chữ người tử tù” là một trong những truyện ngắn xuất sắc và nổi tiếng của Nguyễn Tuân, đem đến nhiều ấn tượng đối với bạn đọc bao thế hệ.
– Giới thiệu nhân vật viên quản ngục: Viên quản ngục là một trong những nhân vật nổi bật trong tác phẩm, một con người yêu cái đẹp nhưng lại sống trong một chế độ mục nát, qua đó khắc sâu thêm nhiều nét ý nghĩa độc đáo của truyện.
II. Thân bài
* Khái quát chung về tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng in năm 1939 trên tạp chí Tao đàn sau được tuyển in trong tập Vang bóng một thời kết tinh tài năng tâm huyết của nhà văn, là văn phẩm đạt đến sự toàn thiện toàn mĩ.
– Giá trị nội dung: Truyện ngắn đã thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước của tác giả, qua đó hiểu hơn nhiều bài học nhân sinh sâu sắc.
* Phân tích nhân vật viên quản ngục
Luận điểm 1: Tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục
– Nói về kẻ tử tù với một thái độ kính trọng không che giấu “Tôi nghe… rất đẹp đó không?”
– Trong những ngày Huấn Cao trong ngục, quản ngục luôn bày tỏ thái độ nghiêm kính khiêm nhường
– Dũng cảm biệt đãi Huấn Cao trong những ngày cuối cùng ngay cả khi bị Huấn Cao coi thường, khinh bỉ:
+ Mong muốn: “Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại”
+ Sai người đem rượu và đồ nhắm đến cho Huấn Cao vì sợ trong buồng giam lạnh
+ Khép nép bày tỏ: “Biết ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều”
+ Sau sự tức giận của Huấn Cao, quản ngục vẫn cung kính giữ lễ, giữ sự đối đãi như thế
– Cảm thấy tiếc nuối khi biết Huấn Cao sắp phải từ giã cõi đời: “Bấy nhiêu… vũ trụ”.
– Viên quản ngục tái nhợt người đi rồi vô cùng lo lắng, sợ nếu không xin được chữ Huấn Cao sẽ ân hận cả đời.
-> Đằng sau thân phận một ngục quan thấp bé, tầm thường là tâm hồn một người nghệ sĩ khát khao, say mê cái đẹp, một người dám bất chấp sinh mệnh để bảo lưu gìn giữ cái đẹp.
=> Thái độ và hành động của Quản ngục cho thấy đây là con người có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, có thiên lương trong sáng.
Luận điểm 2: Sự khát khao và trân trọng cái đẹp của viên quản ngục
– Quản ngục trước kia là người đèn sách bồi đắp “thiên lương” nảy nở tốt đẹp -> ông ta yêu cái đẹp đến say mê.
– Khát khao cái đẹp: mong ước của ông là “được treo ở nhà riêng một đôi câu đối” do chính tay Huấn Cao viết.
– Sự khát khao và niềm trân trọng cái đẹp trong quản ngục mãnh liệt, ông có thể bất chấp cả tính mạng và địa vị, mong sao có được mấy chữ của ông Huấn.
– Biết tính ông Huấn “vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ” -> lo lắng nếu như không xin được chữ ông Huấn trước khi bị hành hình thì “ân hận suốt đời mất”.
– Cả tư thế và tâm thế khi nhận chữ và lắng nghe lời khuyên của Huấn Cao đều rất thành kính trước cái đẹp, cái thiên lương, cái khí phách cao cả.
– Sự khúm núm và cái cúi đầu không thực sự yếu đuối, ủy mị, hèn kém mà nó lại giống như những điểm nhấn càng làm sáng lên vẻ đẹp nhân cách của một tâm hồn thánh thiện.
-> Chỉ có một người trân trọng cái đẹp đến tột cùng mới có những lo sợ khi không xin được chữ Huấn Cao như vậy thôi.
=> Sở nguyện cao quý cho thấy quản ngục là con người có tâm hồn thuần khiết, biết quý trọng nâng niu cái đẹp.
Luận điểm 3: Viên quản ngục là “một thanh âm trong trẻo”
– Cảnh cho chữ diễn ra giữa một buồng giam tối tăm và chật hẹp nhưng tất cả trở nên đẹp đẽ thanh cao bởi “tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ” cùng hai người trao cái đẹp và trân trọng, ngưỡng vọng cái đẹp.
– Sự “khúm núm, run run” của quản ngục không phải là biểu hiện của sự hèn nhát mà là thái độ ngưỡng vọng trước cái đẹp, cái tài.
– Quản ngục đã thoát khỏi vai trò của một người cai quản để trở thành một người trân trọng ngưỡng mộ cái đẹp -> Đồng điệu với Huấn cao
– Chi tiết quản ngục cúi đầu vái lạy người tử tù Huấn Cao với giọt nước mắt rỉ vào kẽ miệng mà nhận mình là kẻ mê muội như một sự thức tỉnh trước cái đẹp, quản ngục đã thoát ra những cái tầm thường, ràng buộc để vươn tới cái cao đẹp.
=> Nhận xét chung: Qua những hành động, cách ứng xử của viên quản ngục, ta càng thêm hiểu và trân trọng hơn nhân vật này, từ đó thấm thía một quan niệm nhân sinh sâu sắc: “Trong thẳm sâu mỗi con người đều ẩn chứa một tâm hồn nghệ sĩ biết hướng tới cái đẹp, khát khao ánh sáng cái đẹp bởi vậy mà mỗi chúng ta hãy nhìn sâu vào tâm hồn con người để nắm bắt ánh sáng thiên lương vì có những khi trong môi trường của cái xấu và cái ác, cái đẹp không lụi tàn mà có thể đẩy lùi cái xấu, cái ác và tồn tại một cách thật mạnh mẽ, bền bỉ”.
* Đặc sắc nghệ thuật
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo và tinh tế
– Thủ pháp tương phản đối lập.
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế.
– Đặt nhân vật vào tình huống giàu kịch tính.
III. Kết bài
– Khái quát lại những nét tiêu biểu về nhân vật viên quản ngục.
Nguyễn Tuân viết truyện “Chữ người tử tù” năm 1939 đăng trên tạp chí “Tao Đàn”, năm 1940, in trong tác phẩm “Vang bóng một thời”. Đoản thiên tiểu thuyết này có khoảng 2800 chữ, xứng đáng là một tờ hoa, trang hoa đích thực. Bên cạnh nhân vật Huấn Cao – tử tù cho chữ, là nhân vật quản ngục – người xin chữ, nhân vật ấy đã được Nguyễn Tuân miêu tả một cách đặc sắc, đầy ấn tượng, góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.
Nhưng vai trò cực kì quan trọng ấy của nhân vật quản ngục không dễ nhận ra, bởi vì nhân vật này dường như được Nguyễn Tuân “giấu” đi, ẩn xuống hàng thứ hai đằng sau nhân vật Huấn Cao. Cảm giác ban đầu khi đọc Chữ người tử tù, người đọc choáng váng, ngập trong ánh sáng tỏa ra từ hình tượng Huấn Cao uy nghi, rực rỡ. Từng dòng chữ, từng trang sách cứ lấp lánh Huấn Cao. Người đọc chẳng thiết nghĩ điều gì khác ngoài nghĩ về Huấn Cao. Nhưng đọc thêm một vài lần nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ kĩ, thấy nhân vật quản ngục từ từ hiện lên, ngày một rõ nét và cuốn hút ta bằng một sức mạnh kì lạ. Ta càng thấm thía, cảm phục ngòi bút tài hoa, thâm thúy của Nguyễn Tuân. Khi được khám phá, phát hiện, nhân vật quản ngục sẽ đem lại cho ta nhiều khoái cảm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị.
Tính cách của nhân vật Huấn Cao có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ. Trái lại, nhân vật viên quản ngục có sự vận động về tính cách. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê cái đẹp, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.
Nhưng sự đời run rủi, và “ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”, quản ngục sa vào chỗ tối tăm, phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Giữa chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ : cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông huấn Cao, gặp thần tượng của mình, gặp trong hoàn cảnh cực kì éo le : giữa chốn ngục thất, thần tượng của ông giờ đây lại là một tử tù, còn ông là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra : ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau ; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một nghệ sĩ tài hoa tầm cỡ “thiên hạ đệ nhất thư pháp”, kẻ đại diện cho luật pháp của triều đình lại là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”’ ngưỡng mộ tài thư pháp ấy. Cuộc “kì ngộ” khiến cho lòng yêu cái đẹp trong quản ngục sống dậy mãnh liệt tới mức ông có thể bất chấp cả tính mạng và địa vị, mong sao có được mấy chữ của ông Huấn.
Người đọc hồi hộp theo dõi từ đầu chí cuối tác phẩm, không biết quản ngục có xinh nổi chữ của ông Huấn hay không ? Nhân vật quản ngục bị đặt vào một thử thách khá gay go quyết liệt. Mấy ngày ngắn ngủi ông Huấn Cao tạm bị giam trong ngục tử tù của y, quản ngục luôn sống trong tình trạng vô cùng căng thẳng, hồi hộp. Y thừa biết tính ông Huấn “vốn khoảng, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Làm sao đây, chỉ trong ít ngày để có thể lấp đầy khoảng cách giữa “cai ngục” và “tử tù”, để thành “tri kỉ” của ông Huấn ? “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”. Mặt khác, viên quản ngục luôn luôn phải dò xét, đề phòng cả bọn thuộc hạ, ông sợ “tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên”, ông phải “dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”.
Nhân vật viên quản ngục được xây dựng với bút pháp giàu chất hiện thực, gần với cuộc đời hơn, thật hơn. Và chính ở đây thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đọc truyện, người đọc như thấy hiện ra trước mắt dáng đi, điệu đứng, lời ăn tiếng nói của viên quản ngục này. Lúc ở công đường, dáng điệu của y rõ bệ vệ, quan cách, oai phong, trầm tĩnh, rõ là chu đáo, cần mẫn trong công việc. Tiếp được công văn để lĩnh nhận sáu tên tù án chém, ông ta đọc tên từng người và dừng lại ở cái tên Huấn Cao, rồi hỏi viên thơ lại để xác minh cho rõ. Nhân vật viên quản ngục không chỉ là kẻ biết thi hành phận sự, cần mẫn, tận tụy, mà còn là nhân vật có đời sống nội tâm sâu sắc. Có lúc khuôn mặt tỏ rõ sự nghĩ ngợi đăm chiêu, “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, “người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”.
Trong nhận xét rất tinh tế của người dẫn truyện thì viên quản ngục có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người”. Ông được coi “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”, là “cái thuần khiết” bị đày ải “vào giữa một đống cặn bã”, là “người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Là quản ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ngục quan là những thứ gông cùm, xiềng xích vô hình siết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. “Lũ người quay quắt”, cái “đống cặn bã” bao quanh ông chẳng khác gì nơi buồng tối giam tử tù “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đã có lúc, ngục quan thấm thía thân phận lạc loài, cô đơn giữa chốn tù ngục của chính mình, y than thở một mình : “Có lẽ lão bá này, cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”. Nếu như bi kịch của ông Huấn là bi kịch của người anh hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường. kẻ lầm đường lạc lối, may thay, vẫn còn có lương tri, lương năng, còn có “lòng biệt nhỡn liên tài”, còn có khát vọng giải thoát. Y tôn thờ cái đẹp, say mê cái đẹp để hi vọng tự giải thoát. Lúc ngục quan gặp huấn Cao thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”, “bộ mặt tư lự” đã hằn nhiều nếp nhăn của cuộc đời “tù nhân” nhọc nhằn, nhưng khát vọng giải thoát biểu hiện ở khát vọng hướng tới cái đẹp vẫn mãnh liệt vô cùng. Âm ỉ bấy lâu, nay nó bùng cháy lên thành lửa ngọn. Ngục quan tự hạ mình xuống trước tử tù, nhẫn nhục chấp nhận sự “khinh bạc đến điều” của ông Huấn. Y không oán thù, y biết người ta, “y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Về bản chất, đó là sự ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách hoàn toàn tự nguyện. Hành động biệt đãi ông Huấn cũng là xuất phát từ lòng say mê đó. Nhưng đến cuối tác phẩm thì không chỉ còn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái chữ đẹp nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tôn thờ nhân cách cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ông Huấn thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm động trước “sở thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri âm, tri kỉ của hai con người cách nhau quá xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh dấu bằng dòng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo một cái vái.
Vận mệnh nghệ thuật của tính cách ông Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự kết thúc của thiên truyện ; trong khi đó, vận mệnh vẫn còn tiếp tục ở nhân vật viên quản ngục : người đọc có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề bất nhân về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch, lành vững.
Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dắt dẫn bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách.
Giữa những bộn bề phồn tạp của buổi chợ phiên văn chương, giữa những náo nhiệt đông đúc của gian hàng lãng mạn, Nguyễn Tuân được nhận ra là một chủ cửa hàng khá đặc biệt với chất ngông đầy mới mẻ cùng cá tính độc đáo của mình Nguyễn Tuân đã đưa người đọc phiêu du vào cuộc hành trình đi tìm cái đẹp ở một thời vang bóng, ở những nơi chỉ có cái xấu, cái ác ngự trị. Tiêu biểu cho cuộc hành trình gian truân, vất vả đó là tác phẩm Chữ người tử tù, đặc biệt thông qua nhân vật viên quản ngục chúng ta sẽ thấy rõ được điều đó.
Quả thật không sai khi nói rằng sản phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi nó là kết quả nhào nặn từ đời sống, nếu sáng tác của văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở đời sống thì sẽ truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời, mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn. Khi sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã không ngừng tìm tòi sáng tạo và ông đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đồng thời tìm ra cho mình một phong cách hoàn toàn khác với những nhà văn cùng thời. Ông luôn khao khát đi tìm cái đẹp dù đó là những nơi bóng tối phủ đầy, chỉ có cái xấu và cái ác ngự trị. Ông luôn tin rằng dù sống trong hoàn cảnh nào thì ẩn sâu trong họ vẫn luôn là những cái đẹp rất đáng trân trọng, đọc Chữ người tử tù ta sẽ thấy rõ được điều đó. Đây là một trong 11 chuyện in trong tập “Vang bóng một thời”, lúc đầu tác phẩm có tên “Dòng chữ cuối cùng” in trong tạp chí Tao Đàn năm 1938, sau đó đổi thành “Chữ người tử tù” in trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940.
Tuy không phải là nhân vật chính trong tác phẩm, nhưng viên quản ngục đóng vai trò quan trọng trong việc làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao và ở viên quản ngục cũng toát lên những nét đẹp đáng quý. Nói về nhân vật này trong mở đầu của truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Tuân từng viết, “trong hoàn cảnh đề lao người ta sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết trọng giá trị của người biết trọng người ngay của viên quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”.
Có lẽ ai cũng nghĩ rằng sống trong chốn đề lao trông coi những kẻ tù tội, hoàn cảnh ấy dễ đẩy con người vào lọc lừa, tàn nhẫn, tuy nhiên trái ngược với những con người nơi đây viên quản ngục lại là người có tính cách dịu dàng, biết trọng người ngay, biết được giá trị của con người dù làm việc cho triều đình nhưng viên quản ngục lại mến mộ khí phách của Huấn Cao khi biết Huấn Cao là một anh hùng vị nghĩa, dám lãnh đạo nhân dân chống lại triều đình. Viên quản ngục hiểu rằng với Huấn Cao mình chỉ là một kẻ tiểu nhân giữ tù, bởi vậy y đã lường trước được rằng mình sẽ bị Huấn Cao khinh bạc, coi thường thế nhưng ông vẫn rất mực cung kính, lễ độ khi đối diện với Huấn Cao.
Huấn Cao bị bắt giam, ngày nào viên quản ngục cũng đích thân đem cơm rượu tới, hành động này của viên quản ngục không phải vì ông muốn có được chữ của Huấn Cao mà nó xuất phát từ tấm lòng biệt nhỡn liên tài của ông dành cho vị anh hùng với khát khao vùng vẫy khắp năm châu bốn bể, mong muốn lật đổ triều đình để nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn. Câu hỏi của viên quản ngục “Xin cho biết ngài cần gì? để tôi cố gắng chu tất” và câu trả lời khẳng khái của Huấn Cao “ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng bước chân vào đây nữa” cùng với thái độ “xin lĩnh ý” lui ra của viên quản ngục một lần nữa đã tôn lên vẻ đẹp bất khuất của Huấn Cao và tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục.
Không chỉ có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, viên quản ngục còn là người rất yêu cái đẹp. Khi nghe tin trại giam tỉnh Sơn sắp tiếp nhận thêm 6 tội nhân nữa trong đó có Huấn Cao người nổi tiếng viết chữ nhanh và đẹp, viên quản ngục đã khao khát có được chữ Huấn Cao để treo trong nhà. Và để đạt được sở nguyện, ông đã bất chấp mọi nguy hiểm dám biệt đãi Huấn Cao và 5 đồng chí của Huấn Cao để đạt được sở nguyện của mình. Dù lo sợ không xin được chữ của Huấn Cao sẽ hối hận nhưng ông vẫn không dám mở miệng để nói với Huấn cao ước muốn của mình. Với tấm lòng chân thành của viên quản ngục đã khiến Huấn Cao cảm động, chấp nhận dành cho y vào lúc nửa đêm, khi trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vọng lại tiếng mõ trên vọng canh. Trong không gian là một buổi tối chật hẹp, ẩm ướt đã diễn ra một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Người cho chữ là kẻ tử tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, còn người nhận chữ là viên quản ngục đang khúm núm cất từng đồng kẽm đánh dấu ô. Sự khúm núm của viên quản ngục không làm cho nhân cách bị hạ thấp mà trái lại càng nâng cao giá trị con người ông, đó là sự hạ mình trước cái tài, cái thiên lương. Sau khi nhận chữ, được Huấn Cao khuyên bảo “nên thay đổi chỗ ở để giữ thiên lương cho lành vững, lúc ấy viên quản ngục đã vái người tử tù một vái chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”, đến đây cái đẹp, cái thiện đã chiến thắng cái xấu, cái ác và ta thấy có những người dù phải sống trong cái xấu và cái ác vẫn hướng về thiên lương, đó là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân về giá trị của con người. Thực sự viên quản ngục đã là một thanh âm trong trẻo giữa bản đàn mà nhạc luật đều xô bồ hỗn loạn.
Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn còn có trong tâm trí bạn đọc những nét chữ vuông vắn, tươi tắn của Huấn Cao, cùng với sự khúm núm vái lạy của viên quản ngục. Thông qua nhân vật viên quản ngục Nguyễn Tuân một lần nữa khẳng định, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cái đẹp cũng luôn có sức cảm hóa con người và để giữ được thiên lương cho lành những con người cần phải tránh xa cái xấu và cái ác.
Nguyễn Tuân với những trang anh hùng dũng liệt hiện lên dưới một một lớp ngôn ngữ dân tộc thuần khiết và chuẩn mực, luôn cố gắng hết sức mình để làm sống dậy một thời quá khứ rực rỡ. Và dường như cảm thấy mình không đủ sức. Nguyễn Tuân kéo cả những nhân vật của mình theo khuynh hướng ấy. Đó là trường hợp của viên quản ngục trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” (trong tập Vang bóng một thời).
Quản ngục: không phải là một anh hùng cao đẹp như Huấn Cao, lại càng không mang dáng vóc, tính cách của một tên đao phủ khát máu (Bữa rượu máu). Con người đó là một hình ảnh trung gian giữa cái đẹp và cái không đẹp. Dưới ngòi bút tài hoa của một bậc thầy về ngôn ngữ, hình ảnh trung gian ấy cũng mập mờ, không có ranh giới rõ rệt.
Thoạt nhiên, viên quản ngục có vẻ như là một con người cam chịu, yên phận và cũng chẳng có gì khác những kẻ cùng địa vị đương thời: “Chuyện triều đình quốc gia chúng ta biết gì mà bàn bạc cho thêm lời”. Cái khuôn khổ phong kiến, cái “phép nước” đã khiến quản ngục quen với việc nhận tù, giao tù, với “những mánh khóe hành hạ thường lệ”. Những lúc ấy, viên quản ngục cứ lạnh lùng như một cỏ may, ngoan ngoãn như một tên nô lệ trung thành với vai trò của mình.
Nhưng có ai ngờ, bên trong con người đó vẫn luôn tồn tại một mầm sống tươi xanh của cái đẹp. Cái mầm ấy bị đè bẹp nhưng vần khắc khoải sống như chờ đợi một lúc nào đó được vươn lên. Rồi thời điểm đó cũng đến. Huấn Cao, con người văn võ song toàn xuất hiện với “cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Quản ngục bắt đầu rơi vào một tâm trạng hết sức khó xử. Một sự đấu tranh âm thầm trở thành nét tiêu biểu cho quản ngục suốt truyện mà cũng chính là biểu hiện tiêu biểu cho quản ngục suốt truyện mà cũng chính là biểu hiện tiêu biểu cho tính “hướng nội” mỗi chúng ta thường bắt gặp trong tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Cuối cùng thì niềm đam mê cái đẹp cũng đã chiến thắng. Tuy cái chiến thắng đó chưa phải là tuyệt đối nhưng vẫn đủ biến viên quản ngục thành một con người khác. “Bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”, “Ngôi sao chính trị” dĩ nhiên là ám chỉ Huấn Cao. Còn “thanh âm phức tạp” ngầm chỉ ai? Con người ấy chính là quản ngục. Quản ngục muốn nâng niu cái đẹp nhưng lại sợ. Vì thế nên Nguyễn Tuân đã để cho nhân vật này hóa thân thành một cái gì đó vô hình, hư ảo. Chi tiết đó vừa bộc lộ nét mạnh của Vang bóng một thời lãng mạn và khao khát đánh thức cái đẹp, vừa để lộ thấp thoáng điểm yếu và sự yếu đuối của Nguyễn Tuân trong cái nhìn hoài vọng xa xôi. Nó khiến Nguyễn Tuân như tránh né, đem ông trời ra mà trách: ‘‘Ông trời nhiều khi chơi ác đem đày ải những cái thuần khiết giữa một đống cặn bã”.
Cũng từ ý niệm ấy, quản ngục nghĩ mình “chọn nhầm nghề mất rồi”, Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp và đã tìm ra cái đẹp long lanh, mong manh giữa một vùng trời đen tối.
Việc miễn những mánh khóe hành hạ, biệt đãi những người tử tù, rồi bạo dạn xin chữ, một cách khéo léo từng chút từng chút gắn thêm nét đẹp vào con người quản ngục bởi vì: “Biết người tài, không phải là kẻ xấu”. Mặc dù vậy khi đã biệt đãi, đã toan tính cách xin chữ, quản ngục vẫn còn sợ, vẫn dặn viên thơ lại nói với Huấn Cao: “Miễn là ngài giữ kín cho”. Một chi tiết nhỏ nhưng chắc là không thể thiếu. Một chi tiết vừa lãng mạn vừa hiện thực. Mến cái tài của Huấn Cao nhưng sợ “phép vua”. Phải tinh tế lắm. Nguyễn Tuân mới phát hiện ra điều đó. Phải tài hoa lắm Nguyễn Tuân mới thể hiện được điều đó. Nếu không viết về nỗi sợ ngấm ngầm thì là không thật, mà Nguyễn Tuân lại là con người luôn vươn tới cái đẹp, cái thật. Nếu viết quá nhiều thì sẽ làm ngắt quãng mạch chuyển biến đang cuồn cuộn, sôi sục trong nhân vật hình tượng.
Mến cái tài của Huấn Cao, khát khao “có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”, đến lúc này, quản ngục dường như không còn là quản ngục mà là hóa thân của Nguyễn Tuân với nhịp tim và hơi thở dành trọn cho sự nâng niu cái đẹp. “Một buổi chiều lạnh, viên quản ngực tái nhặt người đi sau khi tiếp đọc công văn”. Không còn là thương tiếc, xót xa mà đã đạt đến đỉnh điểm của niềm đau xót, thẫn thờ. Việc nhận công văn, quản ngục biết trước nhưng vẫn thấy đột ngột, hụt hẫng. Thiên lương vừa sống dậy trong một con người đã thúc giục quản ngục hành động, một hành động trái ngược với những gì quản ngục nói: “Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép trước”.
Tình yêu cái đẹp đến đam mê đã đánh thức khí phách tiềm tàng nằm im suốt bao nhiêu năm.
Trong cảnh cho chữ hùng vĩ, có một chi tiết đáng nhớ: “Người tù viết xong một chữ viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền xèng đánh dấu ô chữ đặt lên phiến lục”, ông “khúm núm” không phải chỉ vì nịnh bợ mà là vì cảm phục. Khi sự cảm phục lên đến đỉnh điểm cũng là lúc kết thúc truyện. “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Một nghệ thuật tài hoa, kết thúc truyện ở cao trào. Chính nghệ thuật độc đáo đó đã nêu bật cái đẹp toàn diện, toàn mĩ và rất đặc sắc của cả người xin chữ và người cho chữ.
Dọc theo suốt chiều dài của truyện, nhân vật quản ngục luôn tồn tại với một ý nghĩa nhất định. Quản ngục không chỉ là một hình tượng độc đáo mà còn là nhân vật hội đủ những đặc điểm chung nhất của Vang bóng một thời, của quan niệm và phong cách Nguyễn Tuân: lãng mạn mà vẫn hiện thực, là tiếng nói của thiên lương, của tinh thần dân tộc, là biểu hiện của sự “yêu mến và than tiếc những cái đã qua và có sức làm sống lại một thời xưa cũ”.
“Chữ người tử tù” là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập “Vang bóng một thời” của nhà văn Nguyễn Tuân. Trong truyện ngắn, bên cạnh nhân vật Huấn Cao nổi bật với vẻ đẹp hiên ngang, khí phách, tài hoa, mặc dù không có tên tuổi song viên quản ngục cũng lấp lánh những vẻ đẹp diệu kỳ.
Viên quản ngục là viên quan coi sóc chốn lao tù, làm việc trong môi trường toàn là tội lỗi, tội phạm, cứng đầu,… song có sở thích cao quý và sở nguyện cao đẹp. “Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền từ những ngày nào sở nguyện của viên quan coi ngục này là treo ở nhà riêng của mình một đôi câu đối do chính ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn Cao mà treo ở nhà là có một thứ vật báu trên đời”.
Qua những câu văn trên ta thấy ước nguyện lớn lao có được chữ của Huấn Cao treo trong nhà của viên quản ngục đã ấp ủ trong ông quan coi ngục này từ rất lâu, từ ngày này sang tháng khác, trong một thời gian dài, từ những năm tuổi trẻ. Trong cuộc đời, có biết bao những thú tiêu khiển thanh tao nhưng thú chơi chữ luôn ăn sâu bám rễ vào viên quản ngục. Vì sở thích cao quý, sở nguyện cao đẹp ấy, viên quản ngục đã phải dụng công trong cách đối xử với Huấn Cao, đã phải dũng cảm đánh đổi mạng sống của mình để biệt đãi Huấn Cao. Đây thực sự là con người yêu cái đến đến độ quên mình.
Không chỉ có thú vui thanh tao thích chơi chữ, viên quản ngục cũng là người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”. Khi nhận được phiến trát thông báo ngày mai sẽ có tử tù tên Huấn Cao – một người nổi tiếng khắp vùng vì tài viết chữ đẹp, viên quản ngục không e dè ca ngợi tài năng của tử tù Huấn Cao trước mặt người khác. “Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ nhanh và rất đẹp đó không?”. Theo lẽ thường, một người dù tài năng, giỏi giang đến thế nào đi chăng nữa khi sa vào chốn ngục tù đều bị quan lại khinh thường. Nhưng ở đây, viên quản ngục – một người rất có địa vị nơi ngục tù lại rất xem trọng tài năng của Huấn Cao, dám ngợi ca tài hoa của một tên tử tù, điều đó thể hiện cái nhìn kính trọng đặc biệt của viên quản ngục với người có tài.
Khi Huấn Cao được lính tỉnh bàn giao cho quản ngục, viên quản ngục nhìn sáu tên tử từ mới vào với cặp mắt hiền lành, lòng kiêng nể. Không chỉ sai người quét dọn sạch sẽ phòng giam Huấn Cao, ngày ngày viên quản ngục còn cho người đưa rượu thịt tới cho ông Huấn. Khi bước vào phòng giam Huấn Cao, bị ông Huấn ra lời trách móc, viên quản ngục không hề nóng giận, dở trò bỉ ổi mà càng thêm kính trọng Huấn Cao, nhận mình là kẻ tiểu lại.
Có thể nói, viên quản ngục biệt đãi tử tù Huấn Cao trên chính nơi mà mình quản lý là một việc làm vô cùng dũng cảm. Chốn đề lao, người ta sống bằng lừa lọc, tàn nhẫn, có rất nhiều tai mắt xung quanh, hành động “biệt nhỡn” Huấn Cao của viên quản ngục nếu bị phát giác thì ngày Huấn Cao ra pháp trường cũng là ngày viên quản ngục lên giá chém. Đánh đổi mạng sống của chính mình để “biệt đãi” một “liên tài” là một hành động vô cùng liều lĩnh và cũng rất bản lĩnh của viên quản ngục. Dẫu mục đích cuối cùng của việc biệt đãi liên tài ấy là một ngày kia viên quản ngục có chữ của Huấn Cao nhưng phải nhận thấy rằng không có lòng yêu cái đẹp trong người thì viên quản ngục sẽ không làm được điều đó.
Ngoài ra, viên quản ngục cũng là một con người trong chốn tối tăm của lao tù vẫn giữ vững được thiên lương trong sáng. Thiên lương của viên quản ngục được thể hiện qua khuôn mặt tư lự trong những đêm không ngủ của viên quản ngục và chợt nhận ra mình đã chọn nhầm nghề. Thiên lương trong sáng của viên quản ngục được thể hiện qua sự kính trọng người tài khi bị Huấn Cao mắng không tư thù mà chỉ trách móc bản thân. Đặc biệt, thiên lương trong sáng của viên quản ngục được thể hiện qua cái vái lạy người tù và câu nói: “Kẻ ngu muội này xin bái lĩnh” ở phần cuối tác phẩm khi Huấn Cao đã cho chữ xong và khuyên ông quản ngục nên thay đổi chỗ ở, giữ thiên lương cho lành vững rồi mới nghĩ đến chơi chữ. Nếu là kẻ gian xảo, sau khi đã đạt được mục đích người ta có thể thay đổi ngay thái độ, thế nhưng viên quản ngục dù có quyền hành trong tay, dù đã có đạt được sở nguyện có chữ của ông Huấn vẫn một mực kính trọng Huấn Cao, đón nhận lời khuyên của Huấn Cao một cách rất chân thành, lễ phép.
“Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống với nhau bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc. Tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục này là một thanh âm trong trẻo xen giữa bản đà mà nhạc luật đều xô bồ, hỗn loạn” có lẽ là những câu nói Nguyễn Tuân dành cho viên quản ngục. Trong truyện ngắn, viên quản ngục luôn được nhà văn Nguyễn Tuân đặt cạnh Huấn Cao, hai nhân vật được đặt trong mối quan hệ khi trực tiếp khi gián tiếp, khi đối lập khi song hành tạo nên cốt truyện chặt chẽ, tình huống truyện độc đáo đặc sắc, góp phần tạo nên giá trị nhân sinh, nhân văn sâu sắc của tác phẩm. Ngôn ngữ cổ kính trang trọng, phù hợp với không khí xa xưa đưa người đọc trở về quá khứ, góp phần tạo nên tính chân thực không gian văn hóa cho truyện ngắn.
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, bên cạnh nhân vật Huấn Cao, ta còn thấy hiện lên nhân vật quản ngục biết trọng người và biết quý người ngay thẳng, viên quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Nhân vật đã được Nguyễn Tuân khắc họa vô cùng đặc sắc, đầy ấn tượng.
Quản ngục là một người đã lớn tuổi, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Khuôn mặt luôn tư lự, nhăn nheo chứng tỏ ông có một đời sống nội tâm sâu sắc, phong phú. Sau khi nhận được phiến trát gửi về, trong sáu tên tử tù có ông Huấn Cao, người mà ông hằng ngưỡng mộ về tài viết chữ đẹp, điều đó làm ông vô cùng băn khoăn, nghĩ ngợi.
Quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông là người “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay”, “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Nhưng tính cách đó, con người đó lại bị đặt trong hoàn cảnh đề lao chỉ có lừa dối, tàn nhẫn. Hoàn cảnh sống và phẩm chất của nhân vật hoàn toàn trái ngược nhau: quản ngục tâm điền tốt và thẳng thắn nhưng lại phải ăn ở đời đời, kiếp kiếp với một lũ cặn bã. Đó chính là bi kịch của cuộc đời ông.
Sống trong hoàn cảnh đó, nhưng quản ngục vẫn giữ được cho mình một tâm hồn và cốt cách cao đẹp. Nhận được phiến trát, biết được trong số tử tù có Huấn Cao điều đó đã làm ông suy nghĩ cả đêm, việc nhận tù sắp tới gây xáo động lớn trong tâm tư của ông: khuôn mặt “tư lự” dần thay thế bằng “mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Có phải chăng trong đêm thanh tĩnh đó, ông đã suy nghĩ, đã cất nhắc để quyết định sẽ có biệt đãi riêng với người tử tù mang tên Huấn Cao này, cũng bởi vậy từ khuôn mặt tư lự, lo lắng chuyển sang sự thanh thản, bình lặng.
Niềm say mê nghệ thuật, lòng trân trọng người tài chính là yếu tố đã khiến ông quyết định biệt đãi với Huấn Cao. Nhưng đi đến quyết định này, chính bản thân quản ngục cũng phải đối mặt với nguy hiểm. Nhưng bằng tình yêu cái đẹp, bằng khí phách của chính mình viên quản ngục vẫn quyết định biệt đãi với Huấn Cao. Biệt đãi Huấn Cao, quản ngục cũng mang trong mình niềm hi vọng sẽ xin được chữ của ông, nhưng đó chỉ là hi vọng mong manh, bởi tính ông Huấn vốn khoảnh, điều này quản ngục hiểu rất rõ. Ngày cả khi đem tất cả dũng khí vào gặp Huấn Cao, nhận được thái độ coi thường từ Huấn Cao, nhưng quản ngục chỉ lễ phép lui ra và nói: “Xin lĩnh ý” và mọi sự biệt đãi vẫn diễn ra như cũ. Hành động đó, cử chỉ nhún nhường đó là cả tấm lòng của quản ngục dành cho Huấn Cao, cũng chính ông đã tự bộc bạch: “Những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Sự biệt đãi và thái độ nhún nhường đó cho thấy thái độ tâm phục, lòng biết giá người và trọng người ngay của quản ngục với Huấn Cao.
Trong những ngày Huấn Cao dưới sự cai quản của mình, quản ngục còn mang trong mình hi vọng: ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết khi ấy ông sẽ xin ông Huấn chữ lên chục lụa vuông vắn, trắng tinh đã được ông chuẩn bị từ lâu. Nếu được Huấn Cao cho chữ thì cả đời này của ông coi như đã thỏa ý, đã mãn nguyện. Điều ông đau lòng nhất là ông Huấn dưới quyền mình nhưng chẳng biết làm cách nào để có thể xin chữ. Ông sợ một mai ông Huấn bị giải đi thì ông sẽ ân hận cả đời.
Ngày nhận được công văn, quản ngục “tái nhợt người đi”, nốt đêm nay thôi, ngày mai ông Huấn Cao đã bị giải đi để hành hình, vậy là sở nguyện xin chữ của ông có lẽ sẽ mãi mãi không thể thực hiện. Nhưng bên cạnh ông còn có một thầy thơ lại cũng mang trong mình tấm lòng biệt nhỡn liên tài, nghe lời tâm sự của quản ngục, thầy thơ lại đã tìm ông Huấn và kể về nỗi lòng sâu kín của quản ngục. Huấn Cao thấu hiểu nỗi lòng viên quản ngục: “Ta cảm cái tầm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Chính nhân cách, phẩm chất của viên quản ngục đã làm cho Huấn Cao cảm phục và xúc động. “Cảnh cho chữ diễn ra trong phòng giam tử tù và sự kì ngộ giữa khách anh hùng tài tử với kẻ biệt nhỡn liên tài”. Trong không gian nhà tù tối tăm, ẩm thấp, chật hẹp đã diễn ra cảnh cho chữ chưa từng có. Tấm lụa bạch trắng còn nguyên vẹn lần hồ, những đồng tiền kẽm đánh dấu ô, mùi mực thơm đều đã được viên quản ngục cẩn trọng chuẩn bị với tất cả lòng thành kính. Dưới ánh đuốc tỏa ra đỏ rực, ba chiếc đầu chụm lại chăm chú từng nét chữ người tù đang viết. Mỗi chữ Huấn Cao viết xong, viên quản ngục đều “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ” thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”. Trên lần lụa trắng, những nét chữ được viết ra, viên quản ngục lắng nghe lời khuyên chân thành của tử tù, lui về quê nhà, bỏ nghề để giữ vững thiên lương trong sạch của mình. Cảm về tài năng, cảm về nhân cách, viên quản ngục vội vái người tù một vái, trong hàng nước mắt nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Ông tự nhận mình là kẻ mê muội, bao lâu nay sống trong cảnh đề lao, thiếu chút nữa đã làm hoen ố nhân cách và thiên lương của chính mình. Nhờ có ánh sáng của cái đẹp, của nhân cách Huấn Cao, quản ngục mới được khai sáng, mới có thể sống nốt phần đời còn lại trong sự thanh tĩnh, trong sạch.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc biệt, đặt nhân vật vào tình huống gặp gỡ độc đáo, kết hợp với nghệ thuật cường điệu, phóng đại, tương phản giúp bộc lộ tính cách nhân vật. Nhân vật được khắc họa thiên về chiều sâu tâm lí thể hiện qua các lời độc thoại nội tâm.
Bằng nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc, độc đáo, Nguyễn Tuân đã vẽ lên chân dung của một quản ngục thật đẹp đẽ, cao cả về nhân cách. Đồng thời ông cũng cho thấy trong mỗi một con người luôn có một phần con người nghệ sĩ, tâm hồn yêu cái đẹp, trọng cái tài.