/tmp/veinj.jpg
Bài văn Nghị luận Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình gồm dàn ý chi tiết, 5 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài thi môn Ngữ văn lớp 12.
Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình – mẫu 1
Học tập là cả một quá trình dài đằng đẵng mà nhân loại ai cũng muốn tiếp thu càng nhiều kiến thức càng tốt. Nói về mục đích của việc học thì mỗi người sẽ có một ý kiến khác nhau. Người thì học để hiểu biết, người thì học để lấy vị trí, người thì lấy bằng cấp…. Bàn về mục đích học tập UNESCO đã đề xướng “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
Trước hết ta cần phải hiểu được học là gì? Học là cả một quá trình tiếp thu tri thức của nhân loại không chỉ trong sách vở mà còn là tiếp thu các kiến thức xã hội, ngoại giao, ứng xử… Học với mục đích mở rộng tầm hiểu biết, nâng cao trình độ văn hóa cũng như nhận thức của con người. Nói cách khác học là con đường ngắn nhất để con người có thể hoàn thiện chính bản thân mình.
Về mục đích học tập mà UNESCO đề xướng nó hoàn toàn đúng đắn với thời điểm hiện tại và sẽ có giá trị về sau này. Học đầu tiên với mục đích là để hiểu biết. Kiến thức của nhân loại được so sánh như biển cả mênh mông rộng lớn mà trong đó tri thức mỗi người chỉ như một giọt nước nhỏ bé giữa cái đại dương bao la ấy. Mỗi giờ phút trôi qua nhân loai chứng kiến biết bao nhiêu những công trình nghiên cứu khoa học ra đời và nếu không học thì con người chẳng bao giờ có thể tiếp cận được với nền văn minh của thế giới cả. Mãi mãi chúng ta chỉ là những người lạc hậu so với thời cuộc mà thôi. Học để biết, để am hiểu về cuộc sống về kiến thức để biết mình biết người, biết nhìn nhận những điều tốt xấu xung quanh để đánh giá và nêu quan điểm cá nhân về nó. Đây là mục đích đầu tiên mà UNESCO muốn hướng tới.
“Học để làm”, khi đã hiểu được bản chất của vấn đề thì việc quan trọng thứ hai đó chính là áp dụng những thứ đã học được vào trong thực tiễn. Đây cũng giống như câu nói “học đi đôi với hành”. Nếu kiến thức của bạn không được áp dụng vào thực tế thì nó mãi mãi cũng chỉ là mớ lí thuyết suông vô vị mà thôi. Học với thực hành là hai việc song song tồn tại đồng nhất với nhau. Vừa để nắm vững lí thuyết đã học vừa là để thực nghiệm nó mang đến những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, việc “học để làm” có vai trò vô cùng quan trọng. Xã hội không cần những ông tiến sĩ giấy, những người ngồi phòng lạnh để ra quyết định mà họ cần những người vừa có kiến thức lại vừa biết áp dụng nó vào thực tế.
“Học để chung sống” là mục đích thứ ba của việc học. Con người là tổng hòa của các mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần. Chính vì thế nên việc học không chỉ để hiểu biết để cống hiến mà còn để học cách chung sống. Học cách thích nghi với hoàn cảnh, để biết dung hòa các mối quan hệ xã hội để tạo cho xã hội một sự cân bằng nhất định. Đây là điều vô cùng quan trọng trong bất kì một xã hội nào. Bởi nếu bạn có bằng cấp có tri thức nhưng việc đối xử của bạn với mọi người hay nhìn nhận vấn đề xung quanh quá kém cỏi thì học cũng không có ý nghĩa gì.
Và mục đích cuối cùng mà UNESCO muốn hướng tới đó chính là “học để khẳng định mình”. Khẳng định mình ở đây là thể hiện được chỗ đứng bản thân, vị thế xã hội. Quả thực vậy con đường nhanh nhất đưa bạn đến với thành công đó chính là học thức. Nếu không có học vấn không có bằng cấp thì bạn chẳng có thể làm gì cả. Trên thực tế xã hội hiện nay họ rất cần những người có kinh nghiệm thực tế song có một hiện thực đó là để leo lên một vị trí nhất định thì bằng cấp là yêu cầu tối thiểu cần phải có. Sẽ chẳng có ai chấp nhận một ông chủ tịch mà không có nổi bằng tốt nghiệp đại học cả. Vì thế không còn cách nào khác để khẳng định được vị thế cũng như chỗ đứng bản thân trong xã hội thì bạn phải học.
Mục đích học mà UNESCO đề ra không chỉ đúng với giới trẻ hiện tại mà nó còn đúng với tất cả mọi người mọi lứa tuổi và mọi thành phần. Chúng ta sinh ra không ai có sẵn trong mình cả kho tàng kiến thức cả mà nó được chắt chiu trong cả một quá trình miệt mài học tập hàng ngày. Vì thế dù bạn có là ai thì bạn cũng phải học, học thực sự chứ không phải việc học để lấy bằng cấp khoe khoang rằng mình học rộng.
Lê nin đã từng nói “học, học nữa, học mãi” giá trị của câu nói ấy luôn luôn đúng trong mọi hoàn cảnh và mọi giai đoạn. Con người chúng ta ai cũng cần phải học. Học để hiểu biết học để cống hiến và học để giúp mình đứng vững trong xã hội.
Dàn ý mẫu
1. Mở bài:
Con người ai cũng trải qua việc học, nhưng không phải ai cũng có ý thức xác định mục đích và mục đích đúng đắn của việc học.
Mỗi thời đại, con người có mục đích học tập không giống nhau. Tổ chức UNESCO đã đề xướng… nhằm xác định mục đích học tập có tính toàn cầu.
2. Thân bài:
a. Giải thích và làm rõ từng nội dung trong đề xướng của UNESCO:
Học để biết:
Học là quá trình tiếp thu tri thức từ sách vở, trường học, từ thực tế cuộc sống “trường đời”.
“Học để biết” là mục đích đầu tiên của việc học. “Biết” là tiếp thu, mở mang, có thêm kiến thức về đời sống, tự nhiên, xã hội và con người. Con người từ chỗ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều, biết sơ sài đến biết sâu sắc, biết một lĩnh vực đến hiểu biết về nhiều lĩnh vực đời sống…
Nhờ học, con người có những hiểu biết phong phú, tự làm giàu kho tri thức khoa học của mình, tạo được vốn sống sâu sắc…
Quan trọng hơn, qua những tri thức đó, con người có khả năng hiểu biết về bản chất con người và tự nhận thức bản thân, “biết người”, “biết mình”, biết giao tiếp, ứng xử với nhau sao cho “Đắc nhân tâm”…
Học để làm:
“Học để làm” là mục đích tiếp theo của việc học. “Làm” là vận dụng kiến thức có được vào thực tế cuộc sống. Đây là mục đích thiết thực nhất của việc học – “Học đi đôi với hành”.
Làm để tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần phục vụ nhu cầu cuộc sống của bản thân và góp phần tạo nên của cải cho xã hội
Ví dụ: Người nông dân, kĩ sư, bác sĩ… đều mang kiến thức đã học được áp dụng vào thực tế, để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
Học mà không làm thì kiến thức có được không có ích, không bền vững, không được sàng lọc.
Học để chung sống:
Một trong những mục đích quan trọng nhất của việc học. “Chung sống” là khả năng hòa nhập xã hội, kĩ năng giao tiếp, ứng xử… để tự thích nghi với mọi môi trường sống, các quan hệ phức tạp của con người trong quá trình sống để không bị tụt hậu, lạc lõng. Đây là hệ quả tất yếu của việc “biết”, “làm”.
Bởi lẽ, “con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Bản chất, giá trị, nhân cách của con người được hình thành, nuôi dưỡng, khẳng định, thử thách trong các mối quan hệ đó.
Học để tự khẳng định mình:
Là mục đích sau cùng của việc học. “Tự khẳng định mình” là tạo được vị trí, chỗ đứng vững vàng trong xã hội, thể hiện sự tồn tại có ý nghĩa của cá nhân mình trong cuộc đời. Mỗi con người chỉ có thể khẳng định mình khi có hiểu biết, có năng lực hành động, có khả năng chung sống.
Từ việc học, mỗi người có cơ hội khẳng định tri thức mình tích lũy được; khẳng định khả năng lao động, sáng tạo; khẳng định nhân cách, phẩm chất…
b. Bàn bạc, mở rộng vấn đề:
Nội dung đề xướng về mục đích học tập của UNESCO thật sự đúng đắn, đầy đủ, toàn diện.
Mục đích học tập này thực sự đáp ứng, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu giáo dục, đào tạo con người trong thời đại ngày nay. Mục đích này không chỉ dành riêng cho học sinh, sinh viên mà còn dành cho tất cả những ai là người học. Vì thế, có thể coi đây là mục đích học tập chung, có tính chất toàn cầu.
Từ mục đích học tập đúng đắn này, mỗi người học thấy rõ những sai lầm nhận thức về việc học: học không có mục đích; coi việc học là thực hiện nghĩa vụ với người khác; học vì bằng cấp; học vì thành tích; học mà không có khả năng làm, không biết chung sống, không thể khẳng định mình. Ví dụ: Học sinh không biết viết đơn xin nghỉ học đúng quy cách; kĩ sư giỏi, được đào tạo bài bản mà không chế tạo được những công cụ trong sản xuất nông nghiệp; có học vị, bằng cấp nhưng cách ứng xử thì vụng về, lối sống lại thiếu văn hóa…
c. Bài học về nhận thức và hành động của bản thân:
Mục đích học tập giúp con người, xã hội điều chỉnh được nhận thức về thời gian học: không chỉ học ở một giai đoạn mà phải học suốt đời; không chỉ học trong nhà trường mà cần phải học ngoài xã hội; người dạy không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn dạy “làm người”…
Mục đích học tập này giúp người học:
Xác định rõ mục đích, động cơ và thái độ học tập.
Ra sức học tập và rèn luyện, trang bị kiến thức về mọi mặt để có trình độ chuyên môn vững vàng, có khả năng hội nhập quốc tế.
Học phải đi đôi với hành để khẳng định mình. Sống có ích cho cuộc đời và cho gia đình, xã hội.
3. Kết bài:
Khẳng định vai trò của học tập: học để không bị ngu dốt, nghèo nàn và lạc hậu. Học để khẳng định sự thành đạt của cá nhân và sự tiến bộ của nhân loại.
Liên hệ bản thân: Đã xác định được mục đích đúng đắn cho việc học của mình chưa? Cần phải làm gì để đạt được mục tiêu ấy?
Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình – mẫu 2
Nước ta là nước ngàn năm văn hiến, luôn luôn đề cao vai trò của việc học. Song mỗi người lại có những phương pháp, mục đích học tập khác nhau. Nói về cách xác định đúng đắn mục đích của việc học, UNESCO đã từng đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Lời nhận định trên của UNESCO đã một lần nữa khẳng định vai trò to lớn của việc xác định mục đích học tập đúng đắn đối với mỗi cá nhân.
Học là quá trình con người lĩnh hội kiến thức về khoa học kĩ thuật, văn hóa xã hội và nhất là học để con người học cách chung sống cùng cộng đồng. Quá trình học của con người diễn ra một cách liên tục, người ta học ở mọi lúc và mọi nơi. Như nhà cách mạng vĩ đại nước Nga đã từng nói: “Học, học nữa, học mãi” (Lê-nin). “Học để biết” là quá trình con người tiếp nhận tri thức để mở mang hiểu biết cá nhân. “Học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” là cách con người ta áp dụng những lí thuyết vào trong thực tế lao động và sản xuất, học cách đối nhân, xử thế trong cuộc sống thường nhật. Và từ việc học để biết, học để làm, học để chung sống sẽ tạo cho mỗi cá nhân một vị thế, một chỗ đứng riêng trong xã hội để tự khẳng định mình.
UNESCO đã khẳng định vai trò to lớn của việc xác định mục tiêu học tập đúng đắn của mỗi cá nhân. Chỉ khi có được mục tiêu học tập đúng đắn con người mới xác định rõ phương pháp học tập để mang lại kết quả tốt nhất. Điều đó đặc biệt quan trọng đối với những thế hệ thanh, thiếu niên, những chủ nhân tương lai của đất nước. Hơn thế nữa điều này còn phù hợp với đất nước ta khi đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
Mục đích đầu tiên của việc học mà UNESCO đề cập tới là “học để biết”. Mục tiêu này được đặt lên hàng đầu là bởi: Kho tàng trí tuệ của nhân loại là vô tận mà con người chỉ như một hạt cát giữa sa mạc hay một giọt nước giữa đại dương mênh mông. Con người phải không ngừng học tập để tiếp nhận và bắt kịp với những tri thức đang ngày càng mở rộng của nhân loại. Học mở mang trí tuệ, hiểu biết cho ta, dẫn dắt ta vào những chỗ sâu sắc, bí ẩn của thế giới xung quanh, từ sông ngòi, rừng núi cho tới vũ trụ bao la. Học đưa ta vào những thế giới cực lớn như thiên hà, hoặc cực nhỏ, như thế giới của các hạt vật chất. Học đưa ta vượt thời gian, tìm về với những biến cố lịch sử xa xưa hoặc chắp cánh cho ta tới ngày mai, và để hiểu sâu sắc hơn về thực tại. Quan trọng hơn cả việc học để biết sẽ tạo nền tảng cho việc thực hiện và áp dụng vào công việc sau này. Vậy nên con người phải không ngừng lĩnh hội những tri thức của nhân loại để làm giàu thêm hiểu biết cá nhân.
Chỉ khi con người đã lĩnh hội tri thức và vận dụng nó một cách thuần thục vào đời sống thì việc học tập đó mới thực sự là có ý nghĩa: “học để làm”. Thực hành bằng chính sức lực của mình sẽ giúp con người kiểm tra được mức độ hiểu biết của bản thân. Không phải bất kì ai học giỏi là sẽ làm tốt. Khi các đề án, dự thảo của những giáo sư, tiến sĩ không được áp dụng vào thực tế thì đó chỉ là những lí thuyết xuông. Những thứ ấy trở nên vô giá trị khi chỉ được lưu giữ trong bảo tàng, trong thư viện như một kỉ niệm lịch sử. Bởi việc học và hành phải đi liền với nhau mới mang lại kết quả cao. “Học để biết” sẽ giúp cho “học để làm” được thuần thục và tránh được những sai sót không đáng có trong việc áp dụng lí thuyết vào thực tế.
Mặc dù không được học tập một cách bài bản như những giáo sư hay tiến sĩ, song những người nông dân lại biết vận dụng một cách sáng tạo những gì họ chứng kiến và họ hiểu rõ mục đích , cái mà họ thực sự cần trong đời sống sản xuất. Họ học trên chính ruộng đồng, trên những luống cày, họ học bằng chính mồ hôi và nước mắt. Họ đúc rút từ quá trình lao động và tự đi tìm kiếm những giải pháp giúp cho cuộc sống đỡ vất vả, khó khăn, để sản lượng nông nghiệp đạt hiệu quả cao mà lại ít tốn công sức hơn. Nhà khoa học Lương Định Của đã tạo ra những giống lúa mới có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt cho những người nông dân. Không những vậy ông còn là người biết áp dụng những gì đã nghiên cứu vào đời sống thực tại. Trong một lần đi trên đường, ông nhìn thấy bà con cấy dưới ruộng ông đã khuyên mọi người cấy ngửa tay cho nhanh và cây lúa sẽ nhanh bén rễ. Mọi người tưởng rằng đó chỉ là những lí thuyết xuông nên đã mời ông xuống cấy thi. Nhà khoa học nhận lời, bước xuống ô tô rồi ông xuống ruộng và cấy. Ông cấy thi với một chị cấy nhanh nhất ở đó. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn ông đã bỏ xa chị kia, ông không chỉ cấy rất nhanh mà còn rất thẳng. Từ đó bà con đều khâm phục ông bởi ông không chỉ là nhà khoa học giỏi mà hơn thế nữa ông còn biết áp dụng những điều đó vào trong thực tế một cách thành thạo. Ông thực sự đã trở thành tấm gương cho việc “học để làm” để người khác học tập.
Khi đã học để biết và áp dụng được những điều đó vào trong thực tế cũng là lúc con người phải học cách chung sống với cộng đồng. “Học để chung sống” là cách con người điều hòa các mối quan hệ trong cuộc sống hằng ngày và điều đó chỉ thực hiện được khi mỗi cá nhân biết lắng nghe và thấu hiểu cùng mọi người. “Học để chung sống” thực sự thành công khi bạn có khả năng làm cho người khác hiểu, tôn trọng mình. Chắc hẳn bạn đọc vẫn chưa quên hình ảnh của nhân vật Giăng Van-giăng trong tiểu thuyết “Những người cùng khổ” với câu nói nổi tiếng: “Trên đời, chỉ có một điều ấy thôi, đó là yêu thương nhau”. Chính tình yêu thương, sự hi sinh cao cả của Giăng Van-giăng dành cho Cô-dét và Ma-ri-úyt đã khiến cho Gia-ve – một gã thanh tra cảnh sát độc đoán, lần đầu tiên cảm thấy mất phương hướng, nhảy xuống sông Xen tự tử. Không chỉ vậy, tình cảm cao quý ấy của ông đã giúp cho Phăng-tin, một người mẹ nghèo thất lạc con, được ra đi trong sự yên bình và thanh thản. Bằng ánh sáng của tình yêu thương Giăng Van-giăng đã đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai. Giăng Van-giăng là hiện thân cao đẹp nhất của lẽ sống tình thương, của sự chung sống hết mình vì cộng đồng, vì người khác. Chính vì vậy, tác giả Huy-gô đã tạo cho tiểu thuyết sức sống mạnh mẽ vượt qua mọi giới hạn về không gian và thời gian.
Quá trình học tập diễn ra một cách liên tục và lâu dài vì thế đòi hỏi người học phải không ngừng tích lũy kiến thức, làm mới bản thân, và đặc biệt là không bao giờ được bằng lòng với những gì mà mình đã biết. “Học để tự khẳng định mình” là cách con người khẳng định bản thân với chính mình, mới có thể khẳng định mình với mọi người. Khi con người tự khẳng định được mình thì mới được mọi người công nhận, ngưỡng mộ, tôn trọng nhân cách của mình. Năm 2010, giáo sư Ngô Bảo Châu đã mang về vinh quang cho đất nước Việt Nam khi nhận giải thưởng Field về toán học tại Ấn Độ. Đây là giải thưởng cao quý nhất dành cho toán học thế giới. Trước khi giành được giải thưởng này, giáo sư Ngô Bảo Châu cũng là một trong những nhà toán học hàng đầu thế giới. Song để khẳng định chính mình với bản thân, với cộng đồng giáo sư vẫn không ngừng học tập và để mang về vinh quang cho Tổ quốc như ngày hôm nay. Mục đích là ngọn đèn chỉ đường cho những việc làm, hành động cho con người. Chỉ khi có mục đích rõ ràng mọi người mới có thể tránh được những thiếu sót, sai lầm, điều chỉnh hành vi của thân. Việc học cũng như vậy, khi con người xác định được mục tiêu học tập đúng đắn là bước đầu cho sự thành công của con đường học vấn.
Ở trên đời có nhiều người đi học, nhưng ít người biết học cho thành tài là do họ thiếu hoặc vẫn chưa xác định được mục đích học tập đúng đắn. Do không xác định được mục tiêu học tập nên những người này dễ cảm thấy mệt mỏi, chán ngán với việc học, với họ học chỉ mang tính chất chống đối. Tác hại của việc không xác định được mục tiêu học tập đã dẫn tới những hệ lụy đáng tiếc đang diễn ra trong xã hội hiện nay. Đó là hành vi quay cóp, sử dụng tài liệu trong thi cử hay cách sống buông thả của một bộ phận học sinh, sinh viên gây ra những tệ nạn xã hội hiện nay. Đây thực sự là tình trạng đáng báo động, khi đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa rất cần đến những thanh niên tri thức, giàu hiểu biết về khoa học-kĩ thuật. Họ đang không làm đúng với bổn phận của công dân. Qua đó, ta lại càng thấy được vai trò to lớn của việc xác định mục đích học tập đúng đắn mà UNESCO đã đề xướng.
Là một học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường tôi càng thấu hiểu vai trò của cách xác định mục đích học tập đúng đắn. Chỉ khi có được điều này ta mới có thể xác định phương pháp và cách thức học tốt nhất để mang lại hiệu quả học tập cao. Những bạn chưa xác định được mục đích học tập thì thường chán nản, bỏ bê việc học điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới tương lai của họ sau này.
Tục ngữ Nga có câu: “Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không học”. Con người được đi học sẽ mở mang thêm hiểu biết làm giàu thêm tri thức nhân loại. Nên để cho việc học có hiệu quả cao thì mỗi người cần xác định cho mình một mục đích học tập đúng đắn có thể như UNESCO đã đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình – mẫu 3
Con người luôn luôn có nhu cầu học hỏi, mở mang tầm hiểu biết. Chính nhờ việc tích lũy và tìm tòi tri thức mà con người có sự phát triển vượt bậc như ngày nay. Trong xã hội, những con người có hiểu biết rộng luôn được trọng vọng, những người cầu tiến, ham học hỏi luôn được mọi người quý trọng, giúp đỡ. Tuy vậy, không phải ai cũng có thể hiểu hết được mục đích cũng như tầm quan trọng của việc học. Chính vì vậy mà UNESCO – Tổ chức Giáo dục – Khoa học – Văn hóa của Liên hiệp quốc đã đưa ra đề xướng: “học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” như một định hướng cho việc học tập của mọi người.
“Học” là quá trình tiếp thu và tích lũy kiến thức. Chính từ quá trình này, chúng ta mới biết được những điều cần thiết làm hành trang trong đời. Có học, chúng ta mới có đủ kiến thức để giải quyết những khó khăn và đạt được những thành công trong công việc. Có tìm tòi về thế giới, chúng ta mới biết về những nền văn hóa mới, mới biết được cách tôn trọng sự khác biệt giữa các quốc gia, từ đó, chúng ta mới có thể chung sống trong hòa bình, hòa hợp. Và có học, chúng ta mới có thể tạo được chỗ đứng riêng của mình, khẳng định được bản thân trong xã hội. Đó chính là những tác động to lớn của việc học mà UNESCO muốn gửi gắm trong câu “học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Chẳng phải, đây là những điều chúng ta luôn mong muốn, luôn đặt làm mục tiêu hàng đầu để phấn đấu, nỗ lực hay sao? Thông qua lời đề xướng, UNESCO đã mang đến cho chúng ta một thông điệp: việc học sẽ mang lại những thay đổi to lớn cho cuộc đời mỗi con người và có thể là cả thế giới.
Kiến thức là một kho tàng bao la vô tận. Tất nhiên là không một ai có thể nắm giữ hết kho tàng ấy, bởi vì nó quá to lớn và luôn luôn mở rộng không ngừng. Tuy vậy, con người chúng ta luôn có khao khát được chinh phục kho tàng này, dù việc đó chẳng dễ dàng gì. Và chỉ có việc học mới có thể giúp chúng ta thực hiện ước mơ đó. Chúng ta có thể học từ nhiều nguồn, bằng nhiều cách khác nhau. Không có một công thức nào, cũng không có giới hạn nào về thời gian và không gian cho việc học cả. Chúng ta có thể học từ thầy cô, bạn bè, mọi người xung quanh; học từ những kinh nghiệm trong cuộc sống,… rồi lại mang những kiến thức đó áp dụng vào cuộc sống, “làm giàu” cho bản thân ta cả về vật chất lẫn tinh thần và thậm chí giúp đỡ những người khác. Một đất nước có nhiều công dân có trình độ, có tri thức sẽ phát triển rất nhanh và nhanh chóng trở thành một nước phát triển, giàu có, thịnh vượng.
Dân tộc ta có truyền thống hiếu học từ ngàn đời nay. Xưa kia, có không ít những vị Trạng nguyên nhà nghèo nhưng vẫn quyết chí học hành, dùi mài kinh sử, gắng đem công sức, hiểu biết của bản thân ra xây dựng đất nước. Nhiều người trong số họ đã giúp đất nước ta giữ vững độc lập, chủ quyền. Họ đã khẳng định được mình và được lịch sử vinh danh. Ngày nay, hàng ngàn học sinh trên cả nước dù gặp khó khăn về vật chất nhưng vẫn cố gắng đi học vì họ biết rằng học tập là con đường duy nhất có thể thay đổi cuộc sống của họ, giúp họ chứng tỏ được mình trong xã hội. Thậm chí, cả những người đã có địa vị, có được nhiều thành công trong công việc vẫn phải học. Họ không nhất thiết phải đi học, song họ đã tự ý thức được tầm quan trọng của việc học đối với cuộc sống, với công việc, với sự nghiệp của mình. Có lần, một tờ báo đăng một bài viết về lớp học tiếng Việt ở Đức, về việc học tiếng Việt, văn hóa Việt của những người Đức chuẩn bị sang Việt Nam là việc. Không ai yêu cầu họ làm như vậy, nhưng họ biết đó là những điều cần thiết cho cuộc sống của họ ở một đất nước mới với nền văn hóa khác biệt rất nhiều so với văn hóa Đức.
Học hành có ý nghĩa to lớn như vậy, song không phải ai cũng nắm bắt được mục đích của việc học. Có những bạn học sinh chây lười, chán nản, bỏ bê học hành; lại có những bạn học hành qua loa, không nghiêm túc với hy vọng vượt qua được những kỳ kiểm tra mà không chú ý đến việc học thực chất. Như vậy, làm sao các bạn có thể nắm bắt được những kiến thức cần thiết cho mai sau? Liệu rồi đây, các bạn sẽ đương đầu với những thử thách trong cuộc sống như thế nào nếu không có một nền tảng tri thức vững chắc? Lại còn những bạn học hành rất chăm chỉ, luôn luôn dành thời gian cho việc học mà quên mất thời gian cho thế giới bên ngoài. Có lẽ các bạn quên rằng thế giới ấy luôn ẩn chứa những bài học bất ngờ mà sách vở không bao giờ có thể dạy cho các bạn được. Và cũng chính thế giới ấy mới là nơi các bạn thực hành và trải nghiệm những kiến thức các bạn học được.
Học hành rất quan trọng, song cách học cũng như cách sắp xếp, cân bằng thời gian giữa học và thư giãn cũng rất quan trọng. Nếu không biết phương pháp học phù hợp thì dù học rất nhiều song ta không tiếp thu được bao nhiêu, còn nếu không cân bằng được thời gian ta sẽ bị quá tải, từ đó dẫn đến chán nản rồi cuối cùng là lười học. Một trò chơi nhỏ, một bản nhạc hay một bộ phim yêu thích sẽ giúp ta xua tan căng thẳng, chuẩn bị cho việc tiếp thu những kiến thức mới.
Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình – mẫu 4
Trong thời đại khoa học tiên tiến như hiện nay, giáo dục đóng vai trò vô cùng quan trọng. Học tập là vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Vậy học hỏi để làm gì? Trả lời cho câu hỏi này UNESCO đã đề xướng mục đích học tập: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
Mục đích học tập mà UNESCO để ra không chỉ phù hợp với thời đại mà luôn là mục đích rất nhân văn. Mục đích học tập phải đáp ứng hai yêu cầu: tiếp thu kiến thức và yêu cầu thực hành, vận dụng kiến thức, từng bước hoàn thiện nhân cách. Trước hết: “học đế biết”. Bài học đầu tiên của mỗi học sinh là học chữ cái, con số rồi cách viết, cách đọc. Chính từ nên tảng cơ bản nhất ây đã dần hình thành nên một hệ thống kiến thức toàn diện ở mức phổ thông. Học ở đây quá trình tiếp nhận kiến thức do người khác truyền lại và tự mình làm giàu vốn kiến thức cho mình. Qua việc học, chúng ta biết được những quy luật vận động của tự nhiên, những quy tắc chuẩn mực của xã hội, cách sống và hiểu hơn về giá trị cuộc sống. Thu nhận kiến thức có thể nói là mục đích học tập cơ bản nhất. Học tập trau dồi trí thức cho con người và làm cho trí tuệ con người sáng rạng ra.
Tuy nhiên, ông cha ta quan niệm: “Trăm hay không bằng tay quen”. Nếu như chỉ chăm học lí thuyết mà không chịu thực hành thì khi làm việc tránh khỏi những khó khăn, thậm chí là thất bại. Một ví đụ dễ thấy rằng cuộc sống của chúng ta, không ít người hiểu rộng biết nhiều nhưng khả năng thực hành lại rất kém. Ngược lại, tại sao những người nông dân “chân lấm tay bùn” suốt ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” không được học hành đào tạo qua trường lớp nào mà tay nghề lại tài giỏi, xuất sắc như vậy? Đó là khả năng quan sát, đúc rút kinh nghiệm trong lao động của họ. Những người hay nói mà không hay làm là những người vô dụng. Đó là những con người biết trang trí bản thân chứ ko biết rèn luyện bản thân.
Như vậy “học” thôi chưa đủ mà còn phải “đi đôi với hành” nữa. Tất nhiên chúng ta không nên nghiêng phiên diện một phía: “học” quan trọng hơn “hành” quan trọng hơn mà cần biết điều hòa kết hợp giữa hai yêu tố đó. Trong xã hội ngày nay, tri thức là tiền đề quan trọng. Để hoàn thành công việc có kĩ thuật cao cần phải nắm vững lí thuyết để vận dụng cho phù hợp. Công nghệ hiện đại khác nhiều với việc cày cấy, luân phiên mùa vụ của nông dân trên đồng ruộng. Lí thuyết gắn với thực hành sẽ tạo ra năng suất công việc cao hơn. Qua đây, ta thấy được tác động hai chiều giữa “học” và “hành”, “biết” và “làm”, chúng bổ sung, tương tác với nhau, là hai mặt của quá trình.
Bên cạnh việc đề cao giữa thu nhận kiến thức và thực hành, UNESCO đã chỉ ra:” học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Đây chính là mục đích học tập rất nhân văn. Học tập giúp ta hiểu hơn về thế giới xung quanh làm cho những trạng thái tâm hồn ta trở nên linh hoạt hơn, đa dạng phong phú hơn. Ta đã biết mỉm cười trước niềm vui của người khác, biết đau trước những nỗi đau của con người, biết giúp đỡ, chia sẻ, cảm thông và tìm được chính mình. Tri thức tự nó đã là sức mạnh giúp cho con người rộng lượng hơn, vị tha hơn và tự tin hơn trong cuộc sống.
Ngày nay, cuộc sống hiện đại đã tác động đến suy nghĩ con người. Một bộ phận học sinh, sinh viên thời nay đã không xác định đúng đắn mục đích học tập của mình. Họ miệt mài trong học tập như cái máy, coi việc học như nhiệm vụ, trách nhiệm không thể chối bỏ, đối với cha mẹ, thầy cô. Họ học cho bằng cấp, cho sự nghiệp công danh mà họ trở nên thực dụng trong việc học và quên đi lợi ích của việc học, thiết nghĩ: nếu như cả xã hội này coi học tập chi là nghĩa vụ bắt buộc và chỉ dừng lại ở mức độ biết thì mỗi cá nhân sẽ không phát huy được tài năng, cá tính sáng tạo của bản thân và vô tình kim hãm sự phát triển xã hội. Vì vậy việc xác định mục đích học tập là rất quan trọng.
Mục đích học tập mà UNESCO đề xướng rất đúng đắn, nhân văn. Qua đó ta định hướng học tập dễ dàng hơn, việc học trở nên hiệu quả và hữu ích hơn. Tri thức như một cái thang dài vô tận, bước qua một bậc thang ta có thêm hành trang để tự tin bước lên bậc kế tiếp. Học vấn làm đẹp con người!
Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình – mẫu 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã từng có một câu nói rất nổi tiếng đánh giá tầm quan trọng của tri thức đối với sức mạnh của đất nước rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Đặc biệt trong xã hội hiện đại, cơ chế thị trường ngày càng phát triển mạnh mẽ, con người ngày càng cố gắng để hoàn thiện mình, để trở thành một trong những chiến binh xuất sắc nhất trên đường đời, thì giáo dục và học tập lại càng thể hiện rõ được vai trò quan trọng của nó trong việc phát triển của các cá thể. Học tập đã trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu, được nhắc đến như là quốc sách đầu tiên thể hiện trong chủ trương của Đảng và Nhà nước trong nhiều kỳ Đại Hội gần đây. UNESCO cũng nhắc đến việc học tập với những mục đích chính là: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình”, càng chứng tỏ tầm quan trọng của học vấn trong sự phát triển và tiến bộ của nhân loại.
Có thể định nghĩa đơn giản việc học là một quá trình trình tiếp thu kiến thức của con người vừa có yếu tố chủ động vừa bị động, thông qua nhiều nguồn như trong quá trình giảng dạy, qua sách vở, qua kinh nghiệm, kỹ năng của những người đi trước hoặc của chính bản thân trong quá trình thực hành. Việc học là không có điểm dừng nó dàn trải trong suốt cuộc đời của con người, đôi lúc nó diễn ra một cách âm thầm mà con người không nhận ra, như việc con người nhận thức, hoặc hình thành một thói quen nhỏ, thích nghi với điều kiện cuộc sống,… Việc học có nhiều mục đích, nhưng có lẽ nó tựu chung nhất 4 mục đích theo như quan niệm của tổ chức UNESCO. Đầu tiên “học để biết” tức là học để nhận thức, để nâng cao trình độ, bắt kịp với sự phát triển của xã hội, con người đi từ việc mở mang kiến thức kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”, sang đến biết một chút, biết nhiều và đạt đến cảnh giới hiểu sâu sắc một ngành nghề, lĩnh vực nào đó và có một vị trí nhất định trong lĩnh vực này. Việc học để biết, khiến con người có cơ hội mở mang tầm hiểu biết, làm giàu thêm vốn sống, khai mở tâm hồn bằng tri thức và những điều thú vị trong cuộc sống, khiến chúng ta trở nên tự tin hơn trong giao tiếp, dễ dàng mở rộng mối quan hệ xã hội bằng vốn kiến thức rộng rãi sẵn có. Không chỉ vậy, việc học nhiều biết nhiều, còn khiến con người ta trở nên già dặn, trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc nhìn nhận những sự vật, sự việc trong cuộc sống, cũng cải thiện cả việc nhìn nhận bản chất của những con người trong xã hội, thông qua những gì họ nói và thể hiện. Từ đó giúp chúng ta có lối ứng xử đúng, phù hợp và khéo léo, tạo dựng được những mối quan hệ tốt, đồng thời cũng không mắc phải những sai lầm kém duyên khi nguồn kiến thức hạn hẹp, hoặc bị qua mặt mà không hay biết.
Mục đích tiếp theo của việc học ấy là “học để làm”, điều này là hoàn toàn chính xác, không ai có thể làm tốt việc gì mà họ chưa từng được học, được nhìn thấy, dù rằng người ấy có là thiên tài đi chăng nữa. Phàm là việc trên đời đều có một quy trình, mà người muốn làm nó phải thông qua một quá trình học hỏi, tìm hiểu các kỹ năng vận hành, hoạt động sao cho tinh thông để làm nó được tốt và hiệu quả. Mục đích “học để làm” chính là biến thể của câu nói “học đi đôi với hành”, đó là quá trình mà con người vận dụng lý thuyết vào thực tiễn để tạo ra các giá trị thực bao gồm cả vật chất và tinh thần để phục vụ cho cuộc sống của chính bản thân họ và xã hội. Có thể lấy ví dụ, một ca sĩ học thanh nhạc để cuối cùng là hát lên những ca khúc tuyệt vời phục vụ cho nhu cầu giải trí của khán giả, đồng thời cũng đem về các giá trị vật chất cho chính mình. Hay việc một người thợ học làm bánh, để tạo ra những thứ bánh thơm ngon, trước là phục vụ bản thân, sau là phục vụ cho nhu cầu ăn uống của khách hàng. Hoặc người nông dân học sơ chế các nông sản mà mình thu hoạch được để nâng cao giá trị sản phẩm, mang đến chất lượng tốt hơn cho người tiêu dùng. Hoặc các y bác sĩ phải trải qua một quá trình học tập kết hợp với thực hành hàng chục năm, mới được phép khám chữa một cách độc lập cho bệnh nhân, việc học tập dài lâu như vậy mục đích chính là để nâng cao tay nghề bác sĩ, đồng thời đảm bảo chất lượng thăm khám, cho người bệnh những chẩn đoán chính nhất. Có thể thấy rằng việc học cái cốt yếu vẫn là để làm, để tạo ra các giá trị cho xã hội, nếu như học mà không làm thì chỉ là uổng phí, là vô ích, cũng không khiến con người ta phát triển được. Bởi không làm thì không có kinh nghiệm thực tiễn, khi gặp phải những vấn đề mà lý thuyết chưa đề cập đến thì cũng chịu bó tay không giải quyết được.
Mục đích thứ ba của việc học ấy là “học để chung sống”, ông bà ta từ xa xưa đã có những lời dạy rất hay minh chứng cho mục đích này của việc học như “học ăn, học nói, học gói, học mở”, tức là con người trong cuộc sống muốn hòa hợp với cộng đồng thì cần phải học cách ăn nói, cư xử sao cho đúng đắn và khéo léo. Hoặc một câu khác ấy là “Tiên học lễ, hậu học văn” tức ý chỉ, con người trước khi học kiến thức khoa học, thì vẫn cần học nhất là kiến thức xã hội, học cách sống, cách cư xử đúng đắn trong cộng đồng dân tộc trước tiên. Nói con người “học để chung sống” là bởi theo chủ nghĩa C.Mác-Lê Nin, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, chính vì vậy để tồn tại một cách hòa đồng, bình đẳng trong cộng đồng to lớn chúng ta cần phải học những kỹ năng cho việc “chung sống” như kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, cách đối nhân xử thế, khả năng hòa nhập, thích nghi với điều kiện sống, khả năng lắng nghe và trình bày quan điểm cá nhân một cách khéo léo,…Có như vậy bản thân chúng ta mới không bị tụt hậu, lạc lõng trở thành người “tối cổ” trong chính xã hội hiện đại bởi sự biệt lập với cộng đồng. Bên cạnh đó việc học để chung sống, cũng là một quá trình hữu ích và cần thiết giúp con người hoàn thiện nhân cách, cá tính, phẩm chất, giúp con người trưởng thành, tìm được vị trí của mình trong cuộc đời.
Mục đích cuối cùng của việc học mà UNESCO đề cập ấy là “học để khẳng định mình”. Có thể nói rằng đây là mục tiêu mà hầu hết những người tham gia công cuộc học tập đều hướng đến. Trải qua một quá trình học tập dài lâu, nhiều khó khăn gian khổ, đích đến cuối cùng của mỗi người vẫn là mong mình sẽ đạt được chút thành tựu nào đó để khẳng định bản thân, để tạo cho mình một vị trí vững chắc trong xã hội. Thông qua việc thành công trong một lĩnh vực nào đó, hay có một tấm bằng đại học hạng ưu, xây dựng cho mình một sự nghiệp đáng mơ ước, bảo vệ thành công một đề tài nghiên cứu, hoặc có một số tài sản đáng ngưỡng mộ,… Bên cạnh đó người ta còn khẳng định mình thông qua việc “học để chung sống”, “học để làm” và “học để biết”, khẳng định mình bằng cách đối nhân xử thế, nhân phẩm, cá tinh, bằng kỹ năng thực hành, bằng sự hiểu biết của bản thân trong nhiều lĩnh vực,… Chung quy lại mục đích lớn nhất của việc học chính là để tìm cho mình một chỗ đứng trong xã hội, để khẳng định vai trò và vị trí của cá nhân trong cộng đồng, để thấy bản thân mình được sống có ích và có ý nghĩa chứ không phải là chỉ tồn tại lay lắt.
Như vậy, mục đích của việc học do tổ chức UNESCO đề xướng hoàn toàn hợp lý, đúng đắn và thể hiện một cách đầy đủ những lý do mà học tập được coi là vô cùng quan trọng và thiết yếu đối với sự phát triển của nhân loại. Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đề ra của các chương trình giáo dục mà mọi quốc gia, mọi tổ chức đều hướng đến, đảm bảo tính chung nhất của mục đích học tập đối với cư dân trên toàn thế giới. Khẳng định tầm quan trọng của việc học đối với cuộc sống của con người, đồng thời cũng khiến mỗi chúng ta nhận thức được những quan điểm lệch lạc, sai lầm trong quá trình học tập. Ví như có nhiều người cho rằng học tập là không cần thiết, nhàm chán, vô vị, không giúp ích cho cuộc sống, họ không chịu nỗ lực hết mình trong học tập, không có mục tiêu lý tưởng, trở nên lười biếng, ỷ lại. Sử dụng các mánh khóe gian lận, không trung thực để vượt qua các kỳ thi, học tập một cách cầm chừng, học tập chỉ vì thành tích, không quan tâm đến việc học để bồi dưỡng tri thức để vận dụng trong cuộc sống, học để chung sống, học để làm. Dẫn tới hệ lụy một thế hệ con người chỉ giỏi lý thuyết, dốt thực hành, những chú gà công nghiệp chỉ biết học nhưng không biết việc đối nhân xử thế. Ví như những học sinh đi học nhưng không biết viết đơn xin phép đúng quy chuẩn, những “tiến sĩ giấy” lý luận giỏi, nhưng những nghiên cứu có tính ứng dụng thì chưa có cái nào đàng hoàng,…
Tựu chung lại mỗi chúng ta cần phải có nhận thức đúng đắn về việc học tập, xác định được mục tiêu lý tưởng, cũng như xác định rằng học là việc phải dành thời gian cả đời chứ không phải là học có lúc, có giai đoạn. Học tập để khẳng định bản thân, không bị lạc hậu, chậm tiến, học để góp phần xây dựng và phát triển đất nước, xây dựng nền tri thức của nhân loại và tạo dựng sự nghiệp của cá nhân. Vì vậy ngay từ bây giờ mỗi chúng ta cần cố gắng hết sức mình trong công cuộc học tập, luôn nỗ lực không ngừng nghỉ để chinh phục kho tàng kiến thức vô tận của nhân loại, phát triển bản thân một cách tích cực và toàn diện nhất có thể.