/tmp/ybfli.jpg
Nội dung bài viết
Nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững kiến thức tác phẩm Hầu Trời Ngữ văn lớp 11, bài học tác giả – tác phẩm Hầu Trời trình bày đầy đủ nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý phân tích, sơ đồ tư duy và bài văn phân tích tác phẩm.
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.
Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn, ngồi dậy, đun nước uống,
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.
Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên Trời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:
– “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua.”
Ước mãi bây giờ mới gặp tiên!
Người tiên nghe tiếng lại như quen!
Văn chương nào có hay cho lắm
Trời đã sai gọi thời phải lên.
Theo hai cô tiên lên đường mây
Vù vù không cánh mà như bay.
Cửa son đỏ trói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây!
Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy.
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy.
Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc
Trời sai pha nước để nhấp giọng.
Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe!”
– “Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc.”
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.
– “Bẩm con không dám man cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời, văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?”
Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây truyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
Người ở phương nào, ta chưa biết”
– “Dạ, bẩm lạy Trời, con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt.”
Nghe xong, Trời ngợ một chút lâu
Sai bảo Thiên Tào lấy sổ xét.
Thiên tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình Thượng đế trông:
– “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đầy xuống hạ giới vì tội ngông.”
Trời rằng: “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”
– “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Giấy người mực người thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém tuổi ngày cao
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều.
Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có nổi mà dám theo.”
Rằng: “Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi, con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”
Vâng nhời Trời dạy, lạy xin ra
Trời sai Thiên Ngưu đóng xe tiễn
Xe trời đã chực ngoài thiên môn
Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt.
Hai hàng luỵ biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi.
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai.
Đêm khuya khí thanh sao thưa vắng
Trăng tà đưa lối về non Đoài.
Non Đoài đã tới quê trần giới,
Trông lên chư tiên không còn ai.
Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.
Một năm ba trăm sáu mươi đêm,
Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!
1. Tác giả
– Tản Đà (1889 – 1939), tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu.
– Quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội), nằm bên bờ sông Đà, gần chân núi Tản Viên.
– Xuất thân trong buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học mới bắt đầu nên con người ông kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn Người của hai thế kỉ (Hoài Thanh)
– Sự nghiệp sáng tác:
+ Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn vào giữa những năm 20 của thế kỉ XX và là người của hai thế hệ (Nho học và Tây học) khi thơ văn của ông có thể xem như một gạch nối giữa hai thời đại văn học: trung đại và hiện đại.
+ Phong cách của Tản Đà được gói gọn trong ba chữ: sầu – mộng – ngông.
– Các tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1916 – 1918), Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ (luận thuyết, 1918), Giấc mộng con I, II (Truyện phiêu lưu viễn tưởng, 1916, 1932), Thơ Tản Đà (1925), Còn chơi (Thơ và văn xuôi, 1921), Giấc mộng lớn (Tự truyện, 1928)…
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ: Bài thơ in trong tập Còn chơi, xuất bản lần đầu năm 1921.
b. Thể loại: Thất ngôn trường thiên.
c. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm.
d. Ý nghĩa nhan đề: Bài thơ có nhan đề mới nghe qua có vẻ lạ, nhưng nếu biết tác giả là thi sĩ Tản Đà thì ta có thể hiểu được vì sao lại có cái nhan đề Hầu Trời ấy. Qua nhan đề Hầu Trời, dường như tác giả muốn thể hiện khát vọng muốn khẳng định chính mình giữa cuộc đời và vừa thể hiện lãng mạn, bay bổng vừa cái ngông của mình.
e. Bố cục: 4 phần
– Phần 1 (Năm khổ thơ đầu): Lí do được lên trời đọc thơ.
– Phần 2 (Tám khổ tiếp theo): Diễn biến và quang cảnh của buổi đọc thơ trên trời với sự đón tiếp đầy trân trọng.
– Phần 3 (Bốn khổ tiếp theo): Lời trần tình của tác giả về cảnh ngộ ở trần gian, về nghề văn của mình.
– Phần 4 (Phần còn lại): Cảm nghĩ của tác giả khi về lại trần gian.
f. Giá trị nội dung: Bài thơ Hầu trời của Tản Đà đã bộc lộ cái tôi cá nhân, một cái tôi ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình; và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.
g. Nghệ thuật:
– Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu kết cấu nào, nguồn cảm xúc được bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng
– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm, giản dị không cách điệu, ước lệ.
– Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn được người đọc.
1. Lí do và thời điểm nhân vật trữ tình hầu trời
*Tình huống:
– Trong đêm, tiếng ngâm thơ vang cả sông Ngân Hà → Trời mất ngủ nên cho mời nhà thơ hầu trời.
– Cách vào đề dùng lối nói phủ định: không mơ màng, chẳng phải hoảng hốt
– Bốn câu khẳng định: Thật hồn…
→ Vừa tạo cảm giác đây là cột câu chuyện không có thật (mơ), vừa tạo được niềm tin rằng đây là câu chuyện có thật.
⇒ Cách vào đề thật độc đáo và có duyên, tạo không khí li kì, hấp dẫn, kích thích sự tò mò của người đọc.
2. Nhân vật thi sĩ hầu chuyện với nhà vua
– Không khí ở trời với cách đón tiếp (để ghế cho ngồi, pha nước cho uống, chư tiên im lặng hai bên) → Rất phù hợp với buổi đọc thơ.
– Thi sĩ rất cao hứng và có phần tự đắc đương cơn đắc ý đọc đã thích, văn dài hơi tốt ran cung mây, Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay,Chửa biết con in ra mấy mươi?, Văn đã giàu thay, lại lắm lối…
– Chư tiên và nhà trời vừa xúc động, tán thưởng, hâm mộ: Tâm như nở dạ, cơ lè lưỡi, Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày, Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng, Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay……
– Khen một cách nhiệt thànhvăn thật tuyệt, Nhời văn chuốc đẹp như sao băng, Khí văn hùng mạnh như mây chuyển! Êm như gió thoảng, tinh như sương! Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!…
→ Cái tôi của Tản Đà ngông nghênh, độc đáo, cá tính, lãng mạn.
– Ý thức rõ về tài năng thơ văn của mình:
+ Tìm tri kỉ ở tận cõi trời → Khao khát đươc khẳng định tài năng trước cuộc đời.
+ Tư tưởng thoát li mang màu sắc lãng mạn.
– Họ tên, quê sông Đà, núi Tản nước Nam Việt → Ý thức cá nhân, dân tộc đậm nét.
– Thân thế: Một vị trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông.
– Thiên chức: Truyền bá thiên lương, làm hưng thịnh ở hạ giới → Đề cao sự cao cả, tốt đẹp, trọng trách ở bản thân.
⇒ Ý thức trách nhiệm và khát khao được gánh vác việc đời.
– Nghề văn cũng là một nghề kiếm sống nhưng bèo bọt.
– Cuộc sống cơ cực, nghèo khó, không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, bị o ép nhiều chiều.
– Giọng thơ chua chát, xót xa.