/tmp/eaeia.jpg
Bài văn Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người gồm dàn ý chi tiết, 2 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 7.
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người
Tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước, con người là nội dung khá phổ biến của ca dao, dân ca. Ẩn chứa trong những câu hát đối đáp, những lời mời mọc, nhắn gửi … là tình yêu chân thành, tha thiết, là niềm tự hào về vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người … Sau đây là một vài bài tiêu biểu:
Hỏi: Ở đâu năm cửa nàng ơi?
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?
Sông nào bên đục, bên trong?
Núi nào thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh?
Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?
Ở đâu mà lại có thành tiên xây?
Đáp: Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi!
Sông Lục Đầu sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng.
Nước sông Thương bên đục, bên trong,
Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Huế thì vô …
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
Thân em như chẽn đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
Câu hát thứ nhất:
Đây là câu hỏi và lời đáp (đố – giải đố) về những địa danh nổi tiếng của đất nước trong những buổi hát giao lưu, giao duyên của hai bên nam nữ ở các dịp lễ hội, đình đám, vui Tết, vui xuân … hay lúc nông nhàn. Các câu hỏi xoay quanh kiến thức địa lí, lịch sử, các nhân vật nổi tiếng hoặc phong tục xã hội … Điều thú vị là người hỏi biết chọn ra những đặc điểm tiêu biểu của từng địa danh để đánh đố:
Ở đâu năm cửa nàng ơi?
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?
Sông nào bên đục, bên trong?
Núi nào thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh?
Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?
Ở đâu mà lại có thành tiên xây?
Người đáp trả lời rất đúng:
Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi!
Sông Lục Đầu sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng.
Nước sông Thương bên đục, bên trong,
Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.
Hỏi – đáp là hình thức thể hiện, chia sẻ sự hiểu biết cũng như niêm tự hào và tình yêu đối với quê hương, đất nước. Qua lời hỏi và lời đáp, ta thấy các chàng trai và các cô gái đều có hiểu biết sâu rộng, thái độ lịch lãm và tế nhị. Thử thách đầu tiên này là cơ sở để tiến xa hơn trong sự kết giao về mặt tình cảm.
Câu hát thứ hai:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Mở đầu câu hát là cụm từ Rủ nhau quen thuộc trong ca dao: Rủ nhau xuống biển mò cua … Rủ nhau lên núi đốt than … Rủ nhau đi tắm hồ sen … Ở bài này là Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ, một thắng cảnh có giá trị lịch sử và văn hóa rất tiêu biểu của đất Thăng Long ngàn năm văn vật.
Câu hát này gợi nhiều hơn tả. Nó gợi tưởng tượng của người đọc bằng cách nhắc đến những cái tên tiêu biểu cho cảnh đẹp Hồ Gươm như: cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút. Cảnh sắc đẹp đẽ, đa dạng hợp thành một không gian thơ mộng, thiêng liêng, mang đậm dấu ấn lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc.
Những địa danh, cảnh trí trên được nhắc đến bằng tình yêu tha thiết và niềm hãnh diện, tự hào của người dân về Hồ Gươm, về kinh đo Thăng Long nói riêng và cả đất nước nói chung.
Câu cuối: Hỏi ai gây dựng nên non nước này? là câu hỏi tu từ nghệ thuật, có tác dụng nhấn mạnh và khẳng định vai trò to lớn của tổ tiên, ông cha chúng ta trong sự nghiệp dựng xây non sông gấm vóc của dòng giống Tiên Rồng. Đây cũng là dòng thơ xúc động nhật. Câu hát nhắc nhở các thế hệ con cháu phải biết tiếp tục giũ gìn và phát huy tinh hoa truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc. Cảnh đẹp Hồ Gươm ở đây được nâng lên ngang tầm non nước, tượng trưng cho non nước Việt Nam.
Câu hát thứ ba:
Đường vô xứ Huế quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Ai vô xứ Huế thì vô ...
Cảnh thiên nhiên non xanh, nước biếc trên đường vào xứ Huế đẹp như một bức tranh sơn thủy hữu tình.
Các tính từ quanh quanh, xanh, biếc … và cách so sánh thường thấy trong văn chương đã khẳng định vẻ đẹp tuyệt vời của phong cảnh trên con đường thiên lí từ miền Bắc vào miền Trung, đặc biệt là xứ Huế.
Ai vô xứ Huế thì vô là lời nhắn nhủ, mời gọi. Đại từ phiếm chỉ Ai thường có nhiều nghĩa. Nó có thể chỉ số ít hoặc số nhiều, có thể chỉ một người mà cũng có thể là mọi người.
Câu hát thể hiện tình yêu tha thiết và lòng tự hào về vẻ đẹp thơ mộng của đất cố đô. Đây cũng là cách giới thiệu mang sắc thái tinh tế, thanh lịch của người dân xứ Huế.
Câu hát thứ tư:
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
Thân em như chẽn đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
Có hai cách hiểu khác nhau về câu hát này, dựa trên sự thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình có thể là một chàng tải hoặ một cô gái.
Cách hiểu thứ nhất: Đây là lời của một chàng trai trong một sớm mai nào đó ra thăm đồng. Đứng trước cánh đồng mênh mông bát ngát, bát ngát mênh mông và trước vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cô thôn nữ, chàng trai đã cất lên lời ngợi ca để thông qua đó bày tỏ tình cảm của mình.
Bài này có những dòng kéo dài tới 12 tiếng đặc tả cánh đồng rộng mênh mông. Các điệp ngữ, đảo ngữ và phép đối xứng (đứng bên ni đồng – đứng bên tê đồng, mênh mông bát ngát – bát ngát mênh mông) gợi cho người đọc có cảm giác đứng ở phía nào cũng thấy cánh đồng kéo dài đến tận chân trời. Cánh đồng quê hương không chỉ rộng lớn mà còn đẹp đẽ, trù phú và đầy sức sống.
Hình ảnh cô gái được so sánh rất tự nhiên mà không kém phần đẹp đẽ: Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Giữa con người và cảnh vật có sự tương đồng ở nét tươi tắn, phơi phới sức xuân.
Cách hiểu thứ hai cho rằng bài ca này là lời của một cô gái. Trước cánh đồng lúa xanh tốt, ngời ngời sức sống, cô gái nghĩ về tuổi thanh xuân của mình và bỗng dưng cảm thấy có một nguồn hứng khởi đang dào dạt trong lòng; từ đó nảy ra so sánh tuyệt vời: Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Cô gái cảm thấy mình đẹp, một vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung, đầy sức sống. Niêm vui sướng, tự hào về cảnh vật và con người của quê hương được thể hiện rất tinh tế trong từng chữ, từng câu.
Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước thường nhắc đến tên núi, tên sông, tên những vùng đất với nét đặc sắc về cảnh trí, lịch sử, văn hóa … Ẩn chứa đằng sau những bức tranh phong cảnh đẹp đẽ ấy là tình yêu tha thiết, nồng nàn của người dân đất Việt.
Ca dao, dân ca là tiếng hát tâm tình sâu lắng của người dân lao động nghèo, diễn tả tinh tế thế giới nội tâm phong phú của họ. Đó không chỉ là những tiếng ca than thân trách phận đầy xót xa, tiếng hát về tình yêu gia đình ngọt ngào, đằm thắm mà đó còn là những câu ca về tình yêu quê hương đất nước con người đầy mãnh liệt tha thiết. Ẩn chứa trong những bài ca dao ấy ấy là tình cảm tinh tế, chân thành, niềm tự hào đối với con người, quê hương.
Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước thường được thể hiện qua lời đối đáp, lời mời gọi, lời nhắn nhủ. Về hình thức, những bài ca dao về tình yêu quê hương, đất nước chủ yếu gợi nhiều hơn tả, bên cạnh việc sử dụng thể thơ lục bát các tác giả dân gian còn dùng cả nhưng câu thơ tự do để thể hiện cảm xúc một cách phóng khoáng, tự do. Về nội dung, những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước hay nhắc tới tên sông tên núi, những danh lam thắng cảnh, những vùng đất, địa danh lịch sử, văn hóa ở nhiều vùng miền khác nhau. Kho tàng những câu ca về tình yêu quê hương đất nước vô cùng phong phú, trong đó để nhiều ấn tượng sâu sắc nhất với tôi đó là một số bài ca dao sau:
Câu hát đầu tiên:
“Ở đâu năm cửa nàng ơi
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng
….
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây”.
Bài ca dao sử dụng hình thức hát đối đáp quen thuộc trong ca dao giao duyên, đôi bên nam nữ hỏi đáp rất hài hòa ăn ý trong những dịp lễ hội. Đối với bài ca dao này, chàng trai hỏi cô gái trả lời để thử tài kiến thức về lịch sử, địa lí, đồng thời cũng là sự gắn kết trong tình yêu nam nữ. Cách xưng hô “nàng ơi, chàng ơi” vừa dịu dàng vừa tình tứ, tha thiết. Những câu hỏi của chàng trai đều liên quan đến địa danh sông núi, đền đài, cửa ô, thành quách rất đẹp và nổi tiếng của nước ta. Đặc biệt, chàng trai tỏ ra rất tinh tế và thông minh khi đem những đặc trưng tiêu biểu nhất của các địa danh để thử thách. Những cô gái cũng duyên dáng và thông tuệ không kém khi đưa ra những câu trả lời vừa ngắn gọn lại rất chính xác. Một loạt các địa danh nổi tiếng trên khắp mọi miền tổ quốc được gọi tên như thành Hà Nội, sông Lục Đầu, sông Thương, núi Đức Thánh Tản, Đền Sòng, tỉnh Lạng. Chàng trai và cô gái như đang đưa chúng ta cùng đi khám phá, thưởng thức những vẻ đẹp non sông dọc miền tổ quốc. Qua bài ca dao, ta cảm nhận được niềm tự hào về danh lam thắng cảnh của quê hương, đất nước, đây cũng chính là biểu hiện cụ thể sinh động của tình yêu quê hương, đất nước, Đồng thời qua cách đối đáp cũng cho thấy cũng cho thấy sự thông thái, hiểu biết sâu rộng của con người Việt Nam.
Bài ca dao thứ hai:
“Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, tháp bút chưa mòn
Hỏi ai xây dựng lên non nước này”
Không còn là màn đối đáp giao duyên tinh tứ, câu hát này đã trực tiếp nói lên lời mời chào đầy tha thiết, chân thành của người dân đất kinh kì hãy về thăm thú cảnh đẹp quê hương của họ. Bài ca dao mở đầu bằng motip quen thuộc rủ nhau: “rủ nhau đi hái mẫu đơn”, ‘rủ nhau bước xuống ruộng vào”, “rủ nhau đi tắm hồ sen”,…thì ở đây là “rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ, xem Cầu Thê Húc xem chùa Ngọc Sơn,…”. Một loạt những thắng cảnh nổi tiếng có giá trị về văn hóa, lịch sử của mảnh đất ngàn năm văn hiến được nhắc đến trong câu ca. Bài ca dao không tả mà chỉ gợi ra những địa danh, tất cả hợp lại làm nên một bức tranh thắng cảnh vô cùng đẹp, thơ mộng mà thiêng liêng. Người đọc có được một cuộc du hành trong trí tưởng tượng, mặc sức liên tưởng về những nét đẹp của các địa danh ấy. Qua lời mời chào ấy, người dân kinh kì đã thể hiện tình yêu, niềm tự hào sâu sắc về lịch sử, kiến trúc văn hóa, truyền thống hiếu học của con người Thăng Long nói chung, của dân tộc Việt Nam nói riêng. Đặc biệt câu hỏi tu từ cuối bài có ý nghĩa đặc biệt, vừa gợi nhắc đến công lao xây dựng non sống của cha ông, vừa thể hiện niềm tự hào và lòng biết ơn tới công lao của những người anh hùng ấy. Chính vì thế câu ca dao còn là lời nhắc nhở lời răn dạy con cháu mai sau biết trân trọng, giữ gìn, phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa ngàn đời của dân tộc.
Câu hát thứ ba:
“Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Huế thì vô…”
Tiếp tục là một lời mời chào tình tứ, ngọt ngào của những người con đến từ xứ Huế mộng mơ. Khác với câu ca thứ hai, câu hát này không gợi mà đi sâu miêu tả về cảnh đẹp quê hương. Các từ láy “quanh quanh” cùng với hình ảnh so sánh non xanh nước biếc như tranh họa đồ đã vẽ lên bức tranh sơn thủy hữu tình của mảnh đất vốn nổi tiếng thơ mộng, dịu dàng. Câu ca cuối cùng “ai vô xứ Huế thì vô” là lời mời cũng là lời nhắn nhủ với khách phương xa hãy một lần về với xứ Huế, về với non xanh nước biếc đẹp như tiên cảnh của nơi đây. Trước lời mời đáng mến đáng yêu như thế thì ai nỡ buông lời từ chối. Câu hát đã thể hiện tình yêu, niềm tự hào về mảnh đất cố đô đẹp mộng mơ, đồng thời qua lời mời mọc giới thiệu còn cho thấy cách ứng xử tinh tế, thanh lịch của con người xứ Huế.
Câu ca dao thứ tư:
“Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát
…Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”
Nếu như hai bài ca dao trước đưa ta về thăm thú thắng cảnh của miền Bắc, miền Trung tổ quốc thì đến bài câu hát này ta tiếp tục về thăm miền Nam ruột thịt. Cảnh đẹp đặc trưng nhất của mảnh đất Nam Bộ đó là những ruộng lúa rộng dài mênh mông. Hai câu đầu bài ca dao với hình thức đặc biệt có tới 12 tiếng kéo dài trong một câu như một lời ngân nga không dứt để ngợi ca bức tranh ruộng đồng. Kết cấu câu ca đối xứng “đứng bên ni đồng – đứng bên tê đồng, ngó bên tê đồng – ngó bên ni đồng, mênh mông bát ngát – bát ngát mênh mông” cùng với cách sử dụng các điệp ngữ, đảo ngữ, từ láy khiến ta hình dung như đang đứng trước một cánh đồng rộng lớn bát ngát, không chỉ rộng dài mà còn vô cùng trù phú. Từ bức tranh cánh đồng, hình ảnh cô gái xuất hiện đầy sức sống. Cũng mở đầu bằng mô típ “thân em” nhưng đây không phải lời than thân trách phận mà là tiếng nói tự hào về vẻ đẹp của người phụ nữ. Hình ảnh so sánh thân em với chẽn lúa đòng đòng phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban man cho thấy sức sống mơn mởn, tinh khôi, trẻ trung của người con gái Nam bộ. Hai câu cuối, ta vừa có thể liên tưởng đến lời của chàng trai, đứng trước ruộng đồng mênh mông mà thốt lên vẻ đẹp của người con gái mình yêu, vừa có thể hình dung đây là lời của cô gái, trước cảnh ruộng đồng tốt tươi tràn đầy sức sống, cô gái cảm nhận được vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn của mình. Lời ca cất lên đã cho ta thấy tình yêu, niềm trân trọng, tự hào của con người Nam Bộ với phong cảnh và con người quê hương.
Như vậy, có thể thấy cả bốn bài ca dao đều là tiếng hát ngọt ngào, đằm thắm ngợi ca vẻ đẹp quê hương, đất nước và con người ở nhiều vùng miền khác nhau. Với những hình thức thể hiện khác nhau, những nội dung biểu đạt riêng biệt song tình yêu và niềm tự hào về mảnh đất và con người mình sinh ra là không thay đổi.