/tmp/yysuc.jpg
Nội dung bài viết
Bài văn Thuyết minh về một loài vật nuôi mà em yêu thích gồm dàn ý chi tiết, 3 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 9.
Đề bài: Thuyết minh về một loài vật nuôi mà em yêu thích.
Trong các loài vật nuôi nhà thì chó được coi là một loại vật nuôi được tất cả mọi người lựa chọn để chông nhà. Con chó từ lâu đã trở thành một người bạn đồng hành của con người và hiện nay còn được sử dụng rất nhiều trong các ngành cảnh sát và bảo vệ an ninh. Một chú chó cưng trong nhà là một sự lựa chọn hàng đầu của hầu hết tất cả các gia đình.
Chó là loài động vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 15. 000 năm vào cuối Kỷ băng hà Tổ tiên của loài chó là chó sói. Loài vật này được sử dụng để giữ nhà hoặc làm thú chơ Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói là một loài động vật có vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng 400 triệu năm trước. Còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ, màu xám. Vào cuối kỳ Băng hà, cách đây khoảng 40. 000 năm, chó sói và người chung sống với nhau thành nhóm săn mồi theo bầy. Chó sói và người thường tranh nhau con mồi, thậm chí còn giết nhau. Nhưng hẳn là chó sói đã bắt đầu tìm bới những mẩu thức ăn thừa do con người bỏ lại. Con người đã thuần hóa chó sói con và qua lai giống nhiều thế hệ, chó sói tiến hóa thành chó nhà.
Thời gian mang thai trung bình của chó kéo dài khoảng 60 đến 62 ngày, có thể sớm hơn hoặc kéo dài đến 65 ngày. Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc.
Mắt chó có đến 3 mí: một mí trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Tai của chúng rất thính, chúng có thể nhận được 35. 000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất thính như tai. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Não chó rất phát triển. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém,chỉ nhìn thấy 2 màu đen-trắng. Ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay lấy đuôi che cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Chó có đến 2 lớp lông: lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong nhũng ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.
Người ta đã tính được rằng: chó 1 năm tuổi tương ứng với người 16 tuổi. Chó 2 tuổi tương ứng với người 24 tuổi, chó 3 năm tuổi – người 30, và sau đó cứ thêm một năm tuổi chó bằng 4 năm tuổi người. Ngày nay, nhu cầu nuôi chó cảnh đang được phát triển nên những giống chó nhỏ hoặc chó thông minh được nhiều người chơi quan tâm đến. Điều này cũng không có gì khó hiểu bởi chó là con vật thủy chung, gần gũi với con người. Chó giúp con người rất nhiều việc như trông nhà cửa, săn bắt, và được coi là con vật trung thành, tình nghĩa với con người.
Chó là một loài động vật rất thông minh trong tất cả mọi công việc. Có thể nói chó là một loài động vật không bao giờ phản bội chúng ta và là một người bạn đồng hành của con người trong tất cả mọi hoàn cảnh.
Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng
Những câu thơ của Xuân Quỳnh thật hay và đặc sắc để nói về loài gà – một loại vật nuôi quen thuộc trong gia đình Việt Nam. Không chỉ vậy gà còn là người bạn, chiếc chuông báo thức cho cha ông ta. Gà và con người gần gũi với nhau là vậy, nhưng chưa chắc các bạn đã biết hết về loài vật yêu quý này.
Gà hay có tên gọi khác là kê, vốn là họ nhà chim, đã được con người thuần hóa cách đây hàng nghìn năm. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng, gà có nguồn gốc từ loài chim hoang dã ở Ấn Độ và loài gà rừng lông đỏ ở Đông Nam Á. Trải qua hàng nghìn năm thuần hóa, gà mới có hình dạng và tập tính như ngày nay.
Hiện nay có nhiều giống gà khác nhau như: gà lông xù có nguồn gốc từ Trung Quốc; gà tây hay còn được gọi là gà lôi, với thân hình to lớn, có nguồn gốc từ Bắc Mỹ; Gà sao hay còn gọi là gà trĩ có nguồn gốc từ Châu Phi; gà VCN là giống gà lai công nghiệp siêu trứng; gà tre Tân Châu là giống gà bản địa của Việt Nam với dáng nhỏ, màu sắc rực rỡ, hay được lựa chọn làm gà cảnh,… Gà được phân chia rất đa dạng, với nhiều giống gà phong phú, mỗi loại lại có những đặc điểm khu biệt.
Gà là động vật lông vũ, giữa gà trống và gà mái có những đặc điểm khác nhau rất dễ để phân biệt. Gà trống có bộ lông sặc sỡ, bóng bẩy, cùng chiếc đuôi dài uốn cong rất đối hùng dũng, và trên vành cổ thường có lông nhọn, có mào đỏ ở trên đầu, ngoài ra gà trống trưởng thành còn có những chiếc cựa lớn ở dưới chân dùng để đào bới thức ăn và chiến đấu với những con gà trống khác. Gà mái có màu lông kém rực rỡ hơn, thương là màu nâu đất, cũng không có cựa ở chân như gà trống. Gà mái có thân hình thon, nhỏ, nhiều lông tơ. Cả gà trống và mái đều có mào và yếm thịt, tuy nhiên ở đa số giống gà thì những đặc điểm này chỉ nổi bật ở gà trống. Chân của gà được phủ bằng lớp vảy sừng, lớp vảy này giúp bảo vệ chân gà khi chúng đào bới hoặc chiến đấu. Chân gà thường chúng có bốn ngón, ba ngón trước và một ngón sau giúp gà di chuyển linh hoạt, các ngón chân khỏe giúp chúng trong việc bới rác tìm thức ăn. Cánh gà được bao phủ bằng các lớp lông ống xếp chồng lên nhau. Mặc dù có cánh nhưng gà không bay được hoặc chỉ bay được một đoạn ngắn. Những chiếc lông vừa giúp gà di chuyển thăng bằng vừa làm đẹp cho hình thể của chúng, đặc biệt là gà trống để thu hút gà mái.
Về đặc tính của loài gà, chúng là loài sống theo bầy đàn. Các con trong cùng một đàn sẽ tranh giành nhau dành ưu thế, con nào chiếm ưu thế, đứng đầu đàn sẽ nhận về những đặc quyền về thức ăn và nơi ở. Khi một con trong đàn mất đi thì quy luật này sẽ bị phá vỡ, nhưng trật tự này sẽ nhanh chóng được thiết lập lại. Ngoài ra, tập tính của chúng còn phải kể đến việc gáy của gà trống vào buổi sáng để báo hiệu các gà trống khác về lãnh thổ. Tiếng cục tác của gà mái thường xuất hiện sau khi đẻ trứng hoặc dùng để gọi con. Đây là những tập tính cơ bản của loài gà.
Gà là giống vật nuôi quen thuộc, có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi gia đình. Gà là nguồn thức ăn, cho thịt và cho trứng. Trứng và thịt gà giàu dinh dưỡng, hàm lượng đạm cao, cung cấp các chất dưỡng chất cần thiết cho cơ thể con người. Không chỉ vậy, với những gia đình có trang trại nuôi gà lớn, thì chăn nuôi gà cũng là cách thức để phát triển kinh tế cho gia đình. Bên cạnh đó gà còn là con vật để giải trí như gà trọi, gà cảnh, giúp con người khuây khỏa sau những ngày làm việc căng thẳng. Xa xưa, khi ông cha ta chưa có đồng hồ, thì gà chính là người bạn, chiếc đồng hồ báo thức gọi mọi người dậy cho kịp giờ làm đồng.
Về phương diện văn hóa, gà là một trong mười hai con giáp, có ý nghĩa quan trọng trong văn hóa phương Đông. Trong văn hóa dân gian Việt Nam, hình tượng gà trống có một vị trí quan trọng, với tục thờ Mẫu, Thánh, Ngũ Phủ ở những nơi này biểu tượng con gà được đứng ở vị trí trang trọng trước điện thờ tiên thánh. Theo quan niệm Nho giáo, gà là đại diện cho người quân tử với năm đức tính: Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín. Ngoài ra, gà còn gợi khởi nguồn cảm hứng sáng tác như: bức tranh dân gian Đồng Hồ hình ảnh đàn gà ríu rít quanh chân mẹ, hay con gà cục tác lá chanh bên cạnh những chú lợn ủn ỉn. Những nét vẽ đơn sơ, với nghệ thuật pha màu tài tình đã vẽ lên đời sống làng quê Việt Nam. Không chỉ vậy, gà con đi vào đời sống văn học với con gà trắng trong truyện An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy; những câu ca dao, tục ngữ thể hiện đời sống tâm hồn, những bài học kinh nghiệm của ông cha ta: “Khôn ngoan đối đáp người ngoài/ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” hay “Cõng rắn cắn gà nhà”,… những câu thơ của Xuân Quỳnh hình ảnh đàn gà hiện lên cũng thật sinh động: “Này con gà mái mơ/ Khắp mình hoa đốm trắng/…”.
Gà là vật nuôi gần gũi, có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong đời sống của người dân Việt Nam. Với hình dáng nhỏ nhắn nhưng bước đi oai vệ con gà trống đã trở thành biểu tượng của niềm tin, sức mạnh, của niềm mơ ước cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta.
Nếu như trước đây, nhắc tới các loài thú cưng, được chọn để làm cảnh thì chó, mèo, kì nhông, chim chóc… thường được liệt vào danh sách hàng đầu, nhưng hiện nay, một loài động vật nữa cũng được giới trẻ đặc biệt yêu thích và nuôi phổ biến rộng khắp trong các hộ gia đình của người Việt, đó là loài thỏ. Với vẻ ngoài ưa nhìn, bắt mắt, hiền lành và dễ gần, dễ nuôi, thỏ được xem như một loài thú bông dành cho các bạn nữ tuổi teen. Đồng thời, chúng cũng đem lại những lợi nhuận to lớn về mặt kinh tế cho những người nông dân.
Loài thỏ vốn là một loài động vật có vú nhỏ, được xếp vào họ Leporidae thuộc bộ Lagomorpha, sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới. Thỏ gồm có 60 loại giống, được phân thành bảy loại chính, điển hình như thỏ rừng châu Âu (Oryctolagus cuniculus), thỏ đuôi bông (giống Sylvilagus; 13 species), thỏ Amami (Pentalagus furnessi, và một số loài thỏ quý hiếm ở Amami Oshima, Nhật. Hiện nay, do nhu cầu thẩm mĩ về mặt hình thức bên ngoài, người nuôi đã cho ghép đôi các giống thỏ khác nhau về dòng giống nên tạo ra rất nhiều các màu sắc đẹp mắt. Và người Việt cũng quen gọi theo lối gọi dân dã theo màu lông của thỏ như: thỏ bướm Pháp, thỏ trắng New Zealand, thỏ xám đen, thỏ vàng…
Thỏ được thuần chủng và du nhập vào nước ta từ rất lâu rồi, người ta ước tính khoảng trên dưới hai trăm năm về trước. Nên thỏ là loài động vật rất gần gũi với người dân Việt. gần tới mức, thỏ đã đi vào dòng chảy văn học dân gian rất tự nhiên và chứa đựng biết bao nhiêu những bài học sâu sắc ở đời như truyện cổ tích “Thỏ và rùa”; “con thỏ khôn ngoan”; “thỏ con không vâng lời mẹ”… các câu chuyện không chỉ gây hứng thú, hấp dẫn các em thiếu nhi mà còn đem lại cho mọi lứa tuổi sự hiểu biết phong phú về xã hội, con người…
Về đặc điểm ngoại hình và tập tính, bên ngoài thỏ có một lớp lông mao rất dày, có tác dụng giữ ấm cơ thể; đôi tai dài và dựng đứng lên, với thính giác nhạy bén nên chỉ cần một tiếng động nhỏ từ xa là chúng đã có thể bắt được các tín hiệu xung quanh. Điều đó, giúp thỏ có thể trốn tránh được hiểm nguy từ mọi sự đe dọa tác động vào. Mắt thỏ thường có hai màu: đen và đỏ. Tùy vào màu lông bên ngoài mà mắt thỏ có sự khác nhau về màu sắc. Nếu lông thỏ trắng thì mắt thỏ sẽ màu đỏ; còn nếu lông thỏ pha trộn các màu khác với nhau thì mắt sẽ có màu đen. Nhờ có lớp gương phản quang Tapetum lucidum nên vào buổi tối, dù không có đèn điện mắt thỏ vẫn rất tinh tường và khi chiếu ánh đèn điện vào mắt thỏ thì mắt chúng sẽ phát sáng ra các sắc màu lấp lánh. Khác với các loài vật bốn chi khác, hai chân sau của thỏ dài hơn hai chân trước và được gấp khúc. Vì thế, thỏ không đi bằng bốn chân mà lại “nhảy cóc” bằng hai chân sau. Dưới mỗi ngón chân đều có móng dài, sắc và có lớp lông đệm dày, vừa có tác dụng giúp thỏ đi lại vững vàng, lại vừa giúp chúng tự vệ trước sự tấn công của kẻ thù. Với bộ hàm chắc, khỏe, những chiếc răng thỏ, đặc biệt là hai chiếc ở hàm trên phát triển rất dài, sắc, và nhọn, thỏ có thể gặm nhấm bất cứ những thức ăn khô cứng nào đó như mía, ngô, khoai, sắn… Mặc dù, thỏ nay đã được thuần hóa, nuôi trong các hộ gia đình nhưng tập tính đào hang của chúng vẫn không thay đổi. Chiếc hang vừa là nơi để chúng che mưa, che nắng, trốn tránh kẻ thù, lại vừa là nơi an toàn để chúng sinh sản, bảo vệ các con non. Mỗi năm, thỏ đẻ từ 5 đến 7 lứa, mỗi lứa trung bình từ 6 đến 10 con. Trước khi đẻ, thỏ có biểu hiện nhổ lông bụng, cắp rác và trộn với nhau để làm ổ đẻ. Thỏ có đặc tính vừa nuôi con bú, lại vừa mang thai. Vì thế, sau ba ngày sinh sản, thỏ có thể được phối giống và tiếp tục chửa.
Tuy nhiên, do cấu tạo khoang mũi hết sức phức tạp, nhạy bén nên thỏ có thể phân biệt được mùi của nhau. Chúng thường phân chia ranh giới lãnh thổ bằng mùi nước tiểu. Mặc dù tính bầy đàn cao nhưng khi bắt đầu tới tuổi động dục (con đực 8 tháng tuổi, con cái 6 tháng tuổi có thể sinh sản),con cái sẽ chủ động rời đi, tìm nơi cư trú riêng của mình để nuôi dưỡng thai kì cho tới khi sinh nở.
Thức ăn của thỏ rất đa dạng, nhưng có thể chia theo hai nhóm chính, thức ăn tươi và thức ăn khô. Thức ăn tươi là loại thức ăn xanh như: các loại cỏ voi, cỏ mía, lá su hào, lá bắp cải… Đây là thức ăn chính của thỏ. Bên cạnh đó, để bổ sung protein và chất đạm khác, thỏ còn ăn cả những thức ăn khô. Thức ăn khô này là cám viên dành riêng cho thỏ, được chiết suất gồm rất nhiều các thành phần khác nhau, hỗ trợ tăng trọng, nhanh lớn và nâng cao sức đề kháng.
Các loại bệnh thường gặp ở thỏ là: bệnh ghẻ, sình bụng do rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy… Dù thỏ có khả năng thích nghi thời tiết, môi trường sống rất tốt nhưng sức đề kháng của thỏ kém. Một trong các nguyên nhân chính gây nên các loại bệnh thường gặp bên trên là do thức ăn không được đảm bảo, mất vệ sinh, đặc biệt là thức ăn tươi xanh. Vì thế, mặc dù thỏ dễ ăn, dễ nuôi nhưng người nuôi thỏ rất chú trọng điều này.
Ngày nay, do nhu cầu tăng cao, thỏ không chỉ để làm thú cưng mà còn trở thành món ăn đặc sản như thỏ ướp lá chanh, thịt thỏ sốt vang, thỏ hầm thuốc bắc… rất giàu vitamin, tốt cho sức khỏe con người. Bên cạnh đó, lông và da thỏ còn để làm đồ trang sức, làm áo phục vụ con người. Với cấu tạo nội tạng bên trong khá giống cấu tạo ở người, nên thỏ từ lâu còn được chọn làm vật thí nghiệm để tạo ra các loại thuốc mới… Đặc biệt phân của thỏ còn giàu Nitơ và phốt pho nên có thể tận dụng để bón cây, nuôi cá, nuôi chuột bạch… Vì có rất nhiều những lợi ích trên nên nuôi thỏ đã và đang trở thành một ngành kinh tế phát triển rất mạnh, đem lại lợi nhuận lớn cho người nông dân.
Tóm lại, thỏ là một loài động vật có ích, đáp ứng được nhu cầu về mặt tinh thần và vật chất của con người, vừa có thể làm cảnh, lại vừa đem lại lợi nhuận về kinh tế lớn. Vì thế, việc lựa chọn chăn nuôi thỏ là một sự lựa chọn thông minh. Bởi việc nuôi thỏ rất có tiềm năng, đặc biệt đang được nhà nước đặc biệt quan tâm, khuyến khích và tạo điều kiện.