– Lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Mỗi bài thơ ít nhất gồm hai dòng với số tiếng cố định: dòng 6 tiếng (dòng lục) và dòng 8 tiếng (dòng bát).
– Khi đọc bài thơ lục bát:
+ Bài thơ được chia thành 6 khổ thơ. Số dòng thơ:
Khổ 1, 5: Hai dòng thơ.
Khổ 2, 3, 4, 6: Bốn dòng thơ.
+ Cách gieo vần trong bài thơ: Tiếng thứ sáu của dòng lục gieo vần xuống tiếng thứ sáu của dòng bát, tiếng thứ tám của dòng bát gieo vần xuống tiếng thứ sau của dòng lục tiếp theo. (sa – qua; màng – dàng – vàng; ngon – tròn – còn; nôi – đời – Trời; con – mòn – còn; ru – thu – mù; cây – đầy – ngày; nhau – mầu – dầu; thôi – bồi – ngồi; khâu – đau – câu)
+ Các dòng ngắt nhịp chẵn 4/2 hoặc 4/4.
+ Bài thơ viết về người mẹ và sự hi sinh của người mẹ dành cho đứa con.
+ Biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ:
Biện pháp nhân hóa cái trăng còn nằm nôi, đời nín cái đau,…
Biện pháp ẩn dụ bàn tay mẹ; trăng, Mặt Trời,…
+ Từ ngữ trong bài thơ nhẹ nhàng như một lời ru, giàu tính gợi hình,…
→ Tác dụng: Tạo ra âm điệu nhẹ nhàng tựa lời hát ru, giàu hình ảnh, khiến bài thơ mang tính biểu tượng cao, thể tình mẫu tử thiêng liêng…
+ Tác giả (nhân vật trữ tình) đang bày tỏ cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ trong bài thơ.
→ Đó là những cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ về tình mẫu tử thiêng liêng và sự hi sinh cao cả của người mẹ dành cho người con.
– Đọc trước văn bản À ơi tay mẹ; tìm hiểu thêm về tác giả Bình Nguyên:
+ Tác giả Bình Nguyên sinh năm 1959, quê ở Ninh Bình. Tên thật của tác giả là Nguyễn Đăng Hảo. Ông là người tài năng vừa là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam vừa ở trong Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam. Hiện nay là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Ninh Bình.
+ Các tác phẩm chính đã xuất bản: Hoa thảo mộc (2001), Trăng đợi (2004), Đi về nơi không chữ (2006), Lang thang trên giấy (2009).
+ Những giải thưởng văn chương:
Giải A cuộc thi thơ Lục bát năm 2002-2003 của báo Văn Nghệ.
Giải chính thức của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam cho tập thơ “Trăng đợi” năm 2004.
Giải chính thức cuộc thi thơ “Bác Hồ của chúng ta” năm 2003-2004 của báo Văn Nghệ.
Giải chính thức của UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2006 cho tập thơ “Đi về nơi không chữ”
Giải chính thức thơ Lục bát “Ngàn năm thương nhớ” năm 2010 do Báo Văn Nghệ và 5 cơ quan báo chí khác phối hợp tổ chức.
+ Em đã lần nào nghe bà hoặc mẹ ru chưa? Hãy chia sẻ cảm nhận của em về lời ru ấy.
– À, ru hời ơi hời ru
Mẹ ru con có có hay chăng?
Ru từ khi thai nghén trong lòng”,
– À ơi, công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
– À ơi, con cò mà đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
→ Tiếng ru dịu dàng, tiếng ru ngọt ngào đưa chúng ta vào giấc ngủ say. Trong lời hát đấy không chỉ chất chứa tình yêu bao la của mẹ mà còn có cả tình yêu quê hương tha thiết. Đó là những câu ca dao, tục ngữ,… được đúc kết từ bao thế hệ ông cha ta. Không chỉ là những kinh nghiệm mà nó còn mang những hình ảnh quê hương con người Việt Nam. Dù đã lớn, lời ru ấy vẫn mãi là kỉ niệm tha thiết, êm dịu của mẹ đối với chúng ta.