Soạn bài Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận ngắn nhất


Soạn bài Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận

I. Lỗi liên quan đến việc nêu luận điểm

1.

a. Cảnh vật trong bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến thật là vắng vẻ. (lđ).

Lỗi: Luận điểm nêu ra không phù hợp luận cứ nêu ra.

(Luận điểm chưa rõ ràng, nội dung trùng lặp mà không có sự nhấn mạnh hay phát triển ý)

(vắng vẻ, ngưng đọng im lìm, im ắng)

b.

Người làm trai thời xưa luôn mang theo bên mình món nợ công danh, mang theo khao khát “vinh quy bái tổ”, “chức cao vọng trọng” để làm rạng danh tổ tiên, để mở mày mở mặt với thiên hạ… ( lđ)

Lỗi: Luận điểm nêu ra dài dòng, rườm rà, không rõ ràng, không trình bày được đúng trọng tâm, bản chất của vấn đề.

c.

Văn học dân gian ra đời từ thời xa xưa nhưng đến nay vẫn tiếp tục phát triển. ( lđ).

Lỗi: Giữa luận điểm với luận cứ rời rạc, không có sự liên kết về nội dung.

2. Sửa:

a. Sửa: Thay từ vắng vẻ bằng một tính từ khác phù hợp với các luận cứ.

Xem thêm:  Soạn bài Luyện nói: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ ngắn nhất

Bao trùm lên bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến là không gian lặng lẽ và mọi vật nhỏ bé đến bất ngờ.

b. Sửa: Người đời xưa đều muốn lập công để thành danh, đi học để đi thi, đỗ đạt để có ngày “vinh quy bái tổ”, với quyền cao chức trọng để làm rạng danh tổ tiên, mở mày mở mặt với thiên hạ.

Hoặc: “Người làm trai thời xưa luôn mang theo bên mình món nợ công danh”

c. Sửa: “Văn học dân gian là kho tàng kinh nghiệm của cha ông được đúc kết từ xưa.”

Hoặc: “Văn học dân gian nhất là tục ngữ đã mang lại những bài học kinh nghiệm trong thực tiễn đời sống.”

II. Lỗi liên quan đến việc nêu luận cứ

1.

a. Lỗi: Lỗi ở luận cứ

Luận cứ không chuẩn, mơ hồ thiếu chính xác, dẫn thơ sai.

Luận cứ nên là: Sự tương đồng giữa hình tượng thiên nhiên và cảm xúc của nhà thơ-tâm trạng riêng của Huy Cận, nhưng trong đó cũng hàm chứa tâm trạng chung của cái tôi thơ mới. “sâu chót vót”.

b. Luận cứ thiếu chính xác, thiếu toàn diện, đưa ra không phù hợp luận điểm: “Đất nước…hoàn toàn”, nên thêm các luận cứ về “dân tộc ta anh hùng hào kiệt thời nào cũng có”. Ví dụ: Bà Triệu, Lê Lợi, Nguyễn Huệ…

c. Lỗi nêu ra ở luận cứ: luận cứ lộn xộn, không theo một trình tự logic. Luận cứ thiếu tính hệ thống, logic. Luận cứ không phù hợp với luận điểm.

Xem thêm:  Trong cuộc tái ngộ Kim Trọng nói với Kiều đoạn trích Nỗi thương mình có thể góp phần lí giải câu nói đó như thế nào

2. a. Nên sửa: …Ngoài không gian mặt đất, câu thơ mở hướng cho không gian ở tầng cao và cả chiều sâu của sông nước. Đó là không gian ba chiều. Đối diện với không gian ấy, con người đã buồn lại càng cảm thấy cô đơn.

b. Nên sửa: Trong lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc ta có nhiều anh hùng hào kiệt xuất hiện. Từ Bà Trưng, Bà triệu phất cờ khởi nghĩa đến Lê Lợi lãnh đạo muôn dân bền bỉ kháng chiến hai mươi năm trời, buộc giặc Minh phải đầu hàng nhục nhã. Quang Trung trong chiến dịch hành quân thần tốc tiêu diệt 20 vạn quân Thanh.

c. Sửa: Ngô Quyền → Trần Hưng Đạo → Lê Lợi → Nguyễn Huệ. Còn Ải Chi Lăng và Cửa biển Bạch Đằng là địa danh không phải là tên tuổi.

III. Lỗi về cách thức lập luận

1.

a. Lỗi về phương pháp luận:

Luận cứ không phù hợp với luận điểm.Trình bày luận cứ thiếu logic, lộn xộn. Hệ thống luận cứ không đủ làm sáng tỏ cho luận điểm chính. Nguyễn Khuyến mới viết câu đối khóc vợ, hoặc cho cô Tư Hồng câu đối chứ chưa đặt ra số phận người phụ nữ. (nên bỏ ông ra)

b. Luận cứ không phù hợp với luận điểm.

Luận điểm không rõ ràng. Luận cứ thiếu toàn diện. Mới chỉ dừng ở việc nói “cái đói” trong các tác phẩm viết về nông thôn, nông dân.

Xem thêm:  Cảm xúc nhân vật khách trước khung cảnh thiên nhiên sông Bạch Đằng trong Phú sông Bạch Đằng

c. Lỗi luận điểm và luận cứ lộn xộn, không phù hợp.

Luận điểm không rõ ràng: phần gợi mở, dẫn dắt không giúp cho việc nêu bật luận điểm chính. Luận cứ không phù hợp với phạm vi đề tài được nêu trong câu trước: “Tinh tế…của Đỗ Phủ”.

2.

a. Sửa: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm…

b. Sửa: Nam Cao viết nhiều về nông thôn, nghiêng nhiều về số phận bất hạnh của con người. Lão Hạc ăn bả chó…chạy đói.

c. Nên sửa:.

Mùa thu là đề tài gợi nhiều cảm hứng cho thi nhân. Tinh tế và sâu lắng là nỗi sầu vô biên của Đỗ Phủ trong “Thu hứng”. Thơ ca trung đại Việt Nam, phải kể đến Nguyễn Trãi mượn cây tùng chịu đựng sương, tuyết để khẳng định ý chí người quân tử. Thu về trong nếp sinh hoạt giản dị và tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá”… Nỗi buồn cô đơn trống trải trong chùm Thơ thu của Nguyễn Khuyến.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Văn mẫu