Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ năm 2021


Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ năm 2021

Bài văn Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ gồm dàn ý chi tiết, 5 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 8.

Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng – mẫu 1

Thế Lữ là một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Khi ông xuất hiện trên thi đàn, như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Ông không bàn về thơ Mới, không bênh vực thơ Mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, điềm nhiên bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ. Ông đã “làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch” theo như nhận xét của nhà nghiên cứu Hoài Thanh và Hoài Chân. Với bài thơ Nhớ rừng, ta tưởng chừng như thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường.

Lời bài thơ là lời của con hổ trong vườn bách thú, vậy con hổ đó có những tâm trạng gì? Và qua tâm trạng của chúa sơn lâm, nhà thơ muốn gửi gắm điều gì?

Mở đầu bài thơ, tác giả viết:

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,

Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,

…………………………..

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.”

Thật vậy, từ xưa đến nay, hổ được mệnh danh là chúa tể của rừng xanh. Thế nhưng, giờ đây,nó bị nhốt trong vườn bách thú, trong một cái lồng sắt. Vì thế, nó đang ngày đêm “gậm một khối căm hờn trong cũi sắt”. “Gậm” – động từ mạnh, không phải là nhai ngấu nghiến mà nghiến từ từ cho đến lúc nát ra. Câu thơ chủ yếu vần trắc, thể hiện được nỗi căm phẫn, uất hận, căm tức của con hổ khi nó bị nhốt ở trong vườn bách thú. Con hổ như đang muốn phá tan tất cả mọi thứ vì nỗi căm tức đang dâng trào trong lòng nó. Niềm căm phẫn dâng lên cao độ, chuyển thành nỗi chán chường: “Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua”. Câu thơ 8 chữ nhưng có đến 7 chữ là vần bằng, thể hiện nỗi chán ngán, buông xuôi, bất lực của chúa tể rừng xanh. Với vị trí là chúa tể của muôn loài, nay bị “sa cơ” vào vòng “tù hãm”, hơn nữa còn trở thành một “trò lạ mắt”, “thứ đồ chơi” và còn bị nhốt chung với những con vật thấp hèn như “bọn gấu dở hơi”, với cặp báo “vô tư lự”, hổ ta cảm thấy nhục nhã, ê chề biết bao nhiêu.

Như vậy, chỉ một khổ thơ ngắn ngủi thôi, nhưng chúng ta thấy được diễn biến tâm lí của con hổ rất phức tạp. Mạch cảm xúc của bài thơ tiếp tục theo dòng hồi tưởng của con hổ, quay về với những “tình thương và nỗi nhớ” luôn chực trào trong tim:

“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ

Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,

Với khi thét khúc trường ca dữ dội,”

Từ chỗ căm ghét chốn thảo cầm viên, con hổ thả hồn về với ngày xưa. Đó là những năm tháng huy hoàng, năm tháng tự do khi mà nó có thể tự do, tự tại “tung hoành” trong chốn “sơn lâm, bóng cả, cây già”. Con hổ nhớ biết bao nhiêu cảnh rừng xanh, nơi luôn có tiếng gió “gào ngàn”, có giọng “hét núi” với những “khúc trường ca dữ dội”. Nó nhớ những gì là oai hùng, rực rỡ, dữ dội nhất của cảnh rừng đại ngàn. Hơn nữa, nó còn nhớ đến hình dáng, khí thế của một con hổ trong vai trò là chúa tể của muôn loài. Đó là một con hổ oai phong, lẫm liệt:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài

Hình ảnh chúa sơn lâm hiện lên trong bốn câu thơ này thật đẹp biết bao. Thế Lữ đã khắc họa được niềm kiêu hãnh của con hổ khi có một hình dáng vừa mềm mại, vừa rất nhanh: “lượn tấm thân như sóng cuộn”, khi có một khí thế oai hùng: “dõng dạc, đường hoàng”, khi đứng ở vị trí cao nhất của rừng xanh: “chúa tể của muôn loài”.

Nỗi nhớ rừng xanh, nhớ về một thời huy hoàng, tự do đến cồn cào da thịt. Vậy nhưng, giờ đây, tất cả đã không còn nữa:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan

– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Một loạt điệp ngữ: “nào đâu, đâu những”… cứ lặp đi lặp lại, diễn tả thấm thía nỗi nhớ tiếc khôn nguôi của con hổ đối với những cảnh không bao giờ còn thấy nữa. Và giấc mơ huy hoàng đó đã khép lại trong tiếng than u uất: “- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”. Câu thơ sử dụng thán từ và kiểu câu cảm thán, thể hiện sự nuối tiếc sâu sắc của con hổ về những gì tươi đẹp nhất khi nó được sống trong rừng xanh.

Từ sự hồi tưởng về quá khứ tươi đẹp với một thái độ rất đỗi tự hào, con hổ trở về với thực tại với nỗi chán ghét đến tận cùng:

“Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,

Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;”

Nếu như chốn đại ngàn tươi đẹp, huy hoàng bao nhiêu thì vườn bách thú – nơi mà nó đang sống hiện giờ lại là một chốn tầm thường, giả tạo, tất cả đều từ bàn tay của con người, và bắt chước vẻ đẹp của tự nhiên một cách vụng về, lố lăng. Đó không phải là cảnh rừng chân thật, tự nhiên, cao cả.

Khinh thường, căm tức với thực tại, chúa tể rừng xanh khao khát được trở về với nơi núi non hùng vĩ, nơi “thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa”, nơi con hổ được tự do, tự tại. Trong lòng nó, dù có như thế nào, luôn nuôi theo một “giấc mộng ngàn to lớn” – giấc mộng được trở về với rừng xanh, với núi rừng đại ngàn để được sống lại những giây phút huy hoàng ngày xưa.

Con hổ nhớ rừng, nhớ một thời oanh liệt đã qua chính vì nó đang “ngao ngán” trước cuộc sống tù hãm mất tự do. Đấy cũng chính là tâm sự u uất của một lớp người lúc bấy giờ. Đó là “thế hệ 1930”, những thanh niên trí thức “Tây học” vừa thức tỉnh ý thức cá nhân, cảm thấy bất hòa sâu sắc với thực tại xã hội tù túng, giả dối, ngột ngạt đương thời. Họ khao khát cái “tôi” được khẳng định và phát triển trong một cuộc sống rộng lớn, tự do. Hơn nữa, đó cũng là tâm sự chung của người dân Việt Nam trong cảnh mất nước lúc bấy giờ. Bài thơ Nhớ rừng đã nói giùm họ nỗi đau khổ vì thân phận nô lệ, sống “nhục nhằn, tù hãm” trong “cũi sắt”, đã khơi dậy trong họ niềm khát khao tự do cùng nỗi nhớ tiếc “thời oanh liệt” đầy tự hào trong lịch sử dân tộc. Vì vậy, Nhớ rừng đã có được sự đồng cảm đặc biệt rộng rãi, có tiếng vang lớn. Thế nên, có thể coi đây là một áng thơ yêu nước, tiếp nối mạch thơ trữ tình yêu nước trong văn thơ hợp pháp đầu thế kỷ XX.

Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng – mẫu 2

   Thế Lữ là ngôi sao sáng nhất của phong trào “Thơ mới” (1932 – 1945). Thơ ông tràn đầy những ước mơ. Nhớ rừng là tâm sự của một con hổ sa cơ bị nhục nhằn tù hãm, là tâm sự của cả một thế hệ trí thức trẻ tuổi trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ nhanh chóng được đón nhận rất rộng rãi, chứng tỏ có sức đồng cảm mãnh liệt. Tìm hiểu tâm trạng của con hố, ta sẽ hiểu thêm tâm trạng của một lớp người đương thời vậy.

   Trước hết là tâm trạng uất hận của con hổ trong cảnh tù hãm ở vườn bách thú. Trong cái dáng dấp nằm dài hiền lành kia là một nỗi chán ngán đầy ẩn nhẫn trông ngày tháng dần qua. Nhưng sự thực đã được giới thiệu từ đầu: gậm một khối căm hờn… Hóa ra, đổ là bi kịch của chúa sơn lâm — chúa tể của đại ngàn – vốn lừng lẫy; vốn là oai linh rừng thẳm đang sa cơ, nhục nhằn tù hăm, mất tự do. Bài thơ được mở đầu với đoạn:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt 
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm.
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi 
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

   Nghe thế, chúng ta sẽ lầm tưởng rằng chúa sơn lâm đã bị khuất phục, đã trở nên hiền lành, không còn lồng lộn dữ tợn nữa, nêu chỉ thoáng qua bề ngoài của con hổ:

Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.

   Nào ai biết hổ đang “Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt”, “gậm” không phải là nhai ngấu nghiến mà là nghiến từ từ cho đến lúc nát ra. Sắt đâu phải dễ tan vỡ, khối căm hờn cũng không dễ nuốt trôi! Hổ hẳn là muốn phá tan mọi thứ đang vây hãm mình vì nỗi hận đang lên đến cao độ. Bằng cách đó con hổ muốn phá tan tất cả mọi thứ vì nỗi căm tức trong nó đang đến tột đỉnh. Nó căm tức vì bị giam cầm thì ít mà bị xếp ngang hàng với “bọn gấu dở hơi”, “cặp báo vô tư lự” thì nhiều. Tâm trạng nó lúc này còn là cảm thấy vô cùng nhục nhã với hoàn cảnh nó đang phải chịu đựng. Nhục nhã vì nó đường hoang là chúa sơn lâm vậy mà lại bị tù hãm để “làm trò lạ mắt thứ đồ cho người ngạo mạn, ngẩn ngơ” là đối tượng trước tiên mà nó hết sức khinh ghét. Với biện pháp nhân hóa, Thế Lữ đã làm rõ tâm trạng của con hổ khi ở trong tù, nổi bật là sự căm hờn uất hận và nỗi nhục nhã mà nó phải chịu đựng. Cay đắng hơn, từ địa vị chúa tể, giờ đây chỉ còn ở vị trí thấp hèn đồ chơi ngang hàng với bọn gấu dở hơi, bọn báo vô tư lự. Thật là nhục nhã! Thật là căm hận! Đại từ “ta” biểu hiện sắc thái kiêu hãnh, tự cao, tự đại, biết rõ giá trị của mình trong khi bọn tiểu nhân đang giễu cợt sự sa cơ của “bậc anh hùng”. Chính vì thế mà nỗi uất ức, căm hờn ngày càng đè nặng lên tâm hồn chúa sơn lâm.

   Tiếp theo là nỗi khao khát tự do mãnh liệt thể hiện qua những hoài niệm về một núi rừng kì vĩ cùng sức mạnh vô biên của chúa tể rừng xanh. Từ ngục tù cũi sắt, con hổ đang thả hồn theo nỗi nhớ quê hương, nhớ núi rừng xa xưa với niềm nhớ tiếc:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi 
Với khi thét khúc trường ca dữ dội… 

   Cảnh rừng thời hổ làm chúa sơn lâm hiện ra sao mà uy linh, sao mà hùng tráng! Nó vừa có vẻ bí hiểm, hùng vĩ cỗ kính và vừa rất dữ dội khiến người ta phải ghê sợ đến thế. Chỉ bằng một câu, cùng biện pháp so sánh, tác giả đã cho ta thấy vẻ đường hoàng dõng dạc, oai vệ của hổ:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng 
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng 

   Cái bước chân lên đỏ, cái thân hình uốn lượn đó chỉ có được ở chúa sơn lâm, cái uốn lượn vừa mềm mại, vừa nhanh lại vừa khỏe, ít thấy loài nào có thể làm được. Chắc hẳn rằng con hổ đang rất kiêu hãnh khi ” chân lên dõng dạc, đường hoàng” khi “lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng”, bời nó biết nó là chúa tể của muôn loài, giữa chốn “thảo hoa không tên, không tuồi”. Trong niềm căm uất và đau đớn ấy, chúa sơn lâm đang nhớ về cuộc đời tự do, oanh liệt ngày xưa, những ngày xưa thật rực rỡ:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi.
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng.

   Tình thương, nỗi nhớ, xúc cảm ấy nối hai bờ không gian – thời gian, gắn nên quá khứ và hiện tại. Từ không gian là cũi sắt, hổ nhớ về không gian bao la rộng rãi và tự do, không gian rừng thẳm. Thiên nhiên đó kì vĩ phóng khoáng, đổi thay lên tục và vô tận trong bình minh, chiều tà và đêm xuống. Cảnh rừng hoang vu bóng cả, cây già chứa đựng những điều bí mật: hang tối, rừng sâu, thảo hoa không tên, không tuổi, hòa với những âm thanh man dại gió gào ngàn, nguồn hét núi cùng những màu sắc rực rỡ trong buổi nắng mai vàng, chiều đỏ tía và đêm đen huyền bí âm u. Phải chăng đó là bức tranh tứ bình với các cảnh đêm trăng, ngày mưa, sáng xanh, chiều đỏ, cả một không khí vừa dữ dội vừa oai nghiêm của rừng thẳm. Bút pháp lãng mạn thiên về cái cao cả, cái phi thường, tạo dựng một hình ảnh thiên nhiên thật kì vĩ. Đó là thiên nhiên trong cõi nhớ của hùm thiêng.

Xem thêm:  Cuộc chia tay của những con búp bê - tác giả, nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý

   Hổ kiêu hãnh:

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

   Trên cái nền thiên nhiên ấy, hổ hiện ra trong tư thế thật oai phong. Giữa khúc trường ca dữ dội của rừng thiêng tấu lên, hổ bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng. Nói về nỗi nhớ rừng của con hổ nếu dừng ở đây cũng được,nhưng với trí tưởng tượng phong phú và con mắt nhìn của một họa sĩ tài ba, tác giả còn vẽ nêm bức tranh bằng thơ giàu hình ảnh và tràn đầy màu sắc:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn 
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rùng 
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật

   Chúa sơn lâm đang chế ngự thiên nhiên với tâm trạng tự hào, kiêu hãnh, nó chinh phục thiên nhiên, nhưng không phá phách, làm hư hại thiên nhiên. Bởi “những đêm vàng bên bờ suối” mang một vẻ huyền ảo, bởi “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” làm cho núi rừng như được thay áo mới, bởi cảnh thiên nhiên rất sống động vào buổi bình minh nhờ tiếng chim ca. Và:

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng 
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

   Có thể nói rằng hình ảnh “những chiều lênh láng máu sau rừng” và “ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt” là đẹp nhất, dữ dội nhất và tự hào nhất của chúa sơn lâm. Mặt trời là sự sống của muôn loài mà con hổ cũng coi khinh. Đó là thời điểm huy hoàng nhất, rực rỡ nhất, sự chiến thắng huy hoàng của chúa sơn lâm. Điệp ngữ “đâu” càng nhấn mạnh, xoáy sâu vào nỗi nhớ rừng của con hổ.

   Vừa là một chúa tể, hổ còn như một thi sĩ mơ màng đứng uống ánh trăng tan, như nhà hiền triết lặng ngắm giang san trong cơn mưa chuyển bón phương ngàn, thành bậc đế vương có chim ca giấc ngủ ta tưng bừng. Hơn thế nữa, một vị chúa tể tàn bạo làm chủ bóng tối chiếm lấy riêng phần bí mật. Những hình ảnh và động tác đầy ấn tượng miêu tả cuộc sông tự do, thơ mộng và dữ dộiđầy quyền uy. Đấy là cảnh ngắm mưa, ngắm trăng, trời đất, thưởng thức đêm vàng trong im lặng kì ảo, quyến rũ, tận hưởng ban mai cây xanh nắng gội, cảnh! Đợi chiều xuống với hoàng hôn đỏ rực. Qua cảm nhận của chúa sơn lâm, ánh mặt trời hoàng hôn giống hệt sắc máu lênh láng:

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng 
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

   Cùng trong hoài niệm của chúa sơn Lâm, chỉ có một mặt trời xứng đáng có! Quyền uy ngang tầm với hổ. Thế mà chiều đến, mặt trơi kia cũng dần đợi chết, cũng gục ngã, lênh láng máu sau rừng. Mặt trời chết, mặt trời cũng như một! Con thú hấp hối sau một cuộc đọ sức ghê gớm nhất, gay go nhất. Cách nhìn, cách nghĩ của chúa sơn lâm thật ngạo mạn. Mặt trời cũng không còn tồn tại, không còn giữ được ngôi vị cao cả. Khi màn đểm xuống quyền uy của chúa sơn lâm là bao trùm vũ trụ. Hổ vờn bóng, giẫm nát lá gai, cỏ sắc là đỉnh điểm của quyền uy mãnh hổ về đêm – kẻ thống trị cả vũ trụ.

   Tất cả đều trong hoài niệm của hổ: rừng thiêng đang hòa tấu một khúc nhạc dữ dội để tôn vinh sức mạnh của chúa sơn lâm. Say sưa trong bản nhạc ca ngợi quyền uy và tự do trong dĩ vãng, mãnh hổ bỗng sực tỉnh và gào thét xót xa! Những chiến công của hổ chợt qua trong tâm trạng đầy thất vọng và nuối tiếc. Nó thốt lên lời ai oán: “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!”. Cả câu phần lớn sử dụng thanh bằng làm âm hưởng câu thơ từ không khí hào hùng của những chiến thắng huy hoàng bỗng trở nên buồn hơn. Con hổ nhớ về quá khứ vàng son của mình với tâm trạng tự hào kiêu hãnh thì nó lại nhìn vào hiện thực với một sự uất hận căm tức. Nó căm ghét:

"Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối."
Với: "hoa chăm, cỏ xén, cây trồng".

   Tất cả mọi thứ đều do bàn tay con người. Đó là sự giả tạo, bắt chước vẻ đẹp của tự nhiên một cách vụng về. Đó không phải là cảnh rừng chân thật, tự nhiên và cao cả. Qua đó ta hiểu được tâm trạng của con hổ lúc này là khao khát một cái gì đó chân thật, tự nhiên, cao cả.

   Khinh bạc căm tức với hiện tại, nó lại khao khát trở về với “núi non hùng vĩ “, “nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa” trở về với cuộc sống tự do. Nhưng đang bị giam cầm trong cũi sắt, chúa sơn lâm đành thả hồn mình theo “giấc mộng ngàn” để được sống lại những giờ phút huy hoàng thuở xưa, cố xua đi những ngày ảm đạm, “ngao ngán” của mình.

   Nghệ thuật tương phản làm nổi bật lời thét gào ngân vang xót xa. Từ đỉnh cao huy hoàng của tự do, quyền uy chúa tể, hổ sực tỉnh nhớ tới thân phận tù đầy của mình. Các từ nghi vấn sử dụng liên tiếp nào đâu, đâu những… bộc lộ niềm hoài niệm đau đớn tiếc nuối, uất hận. Tâm trạng cũng trở nên phức tạp, đa dạng: nhớ thương, đau buồn, uất hận.

   Cuối cùng là tâm trạng u uất, chán ngán trước sự giả tạo, đơn điệu của cảnh tù hãm. Càng thương nhớ vẻ đẹp cao cả dữ dội của rừng xanh tự do bao nhiêu, chúa sơn lâm càng căm hờn, chán ngán trước cảnh giả tạo, đơn điệu, tù túng ở vườn bách thú bấy nhiêu:

"Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cò xén, lối phẳng, cây trồng 
Dài nước đen giả suối chẳng thông dòng 
Len dưới nách những mô gò thấp kém 
Dăm vầng lá hiền lành không bí hiểm.
Cũng học đòi bẳt chước vồ hoang vu...."

   Tâm trạng của chúa sơn Lâm cũng là tuyên ngôn của chủ nghĩa lãng mạn, dứt khoát không chấp nhận cái tầm thường, cái vô nghĩa, sự bắt chước giả tạo. Càng ghét cay, ghét đắng thực tại giả dối bao nhiêu, chúa sơn lâm càng tiếc thương đau đớn nhớ về dĩ vãng bấy nhiêu. Hổ vẫn thả hồn về giang sơn cũ trong giấc mộng ngàn to lớn, giấc mộng về rừng thảm, về tự do như một cõi thiên đường:

Hỡi cánh rừng ghê gớm của ta ơi!

   Con hổ nhớ rừng, nhớ một thời oanh liệt đã qua chính vì nó đang chán ngán trước cuộc sống tù hãm rất tự do. Tâm trạng con hổ, vì khát vọng tự do, cũng chính là của nhà thơ, của cả một xã hội, một thời đại bấy giờ, đang bực tức, đang chán ngán cuộc sống thực tại mất tự do. Thật là một tâm trạng vừa kiêu hãnh vừa tuyệt vọng. Đó chính là điều làm nên sức sống mãnh liệt của hình tượng con hổ, của bài thơ.. Đó là tâm trạng của chúa sơn lâm mà cũng là tâm trạng của thế hệ thanh niên lãng mạn thời đại: khát khao tự do, sống cao cả, không chấp nhận cái buồn tẻ, vô nghĩa.

Dàn ý Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng

a. Mở bài

– Giới thiệu bài thơ và hình tượng con hổ.

– Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ được viết năm 1934, in trong tập “Mấy vần thơ” (1935). “Nhớ rừng” là một trong những bài thơ vào hàng kiệt tác của Thế Lữ và của cả phong trào thơ mới.

– Con hổ là hình tượng trung tâm của bài thơ. Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú, tác giả diễn tả niềm khao khát tự do mãnh liệt và tâm sự yêu nước của con người những ngày nô lệ.

b. Thân bài

– Tâm trạng của con hổ trong cảnh giam cầm ở vườn bách thú

– Niềm căm uất “gậm một khối căm hờn trong cũi sắt” và nỗi ngao ngán “nằm dài trông ngày tháng dần qua” (đoạn 1).

– Tâm trạng chán trường và thái độ khinh biệt trước sự tầm thường, giả dối ở vườn bách thú (đoạn 4).

– Nỗi “nhớ rừng” da diết không nguôi của con hổ ( đoạn 2, 3 và 5)

– Con hổ nhớ cảnh nước non hùng vĩ với tất cả những gì lớn lao, dữ dội, phi thường.

– Con hổ nhớ tiếc về một “thuở tung hoành hống hách những ngày xưa” đầy tự do và uy quyền của chúa sơn lâm.

c. Kết bài

– Tâm trạng của con hổ là một ấn dụ thể hiện một cách kín đáo tâm trạng của tác giả, cũng là tâm sự yêu nước của những người Việt Nam thuở ấy: họ chán ghét cảnh sống tù túng, tầm thường của thực tại nô lệ và khao khát tự do.

– Tâm trạng ấy đã làm nên giá trị và sức sống lâu bền của bài thơ.

Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng – mẫu 3

Nhớ rừng là một bài thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Nó cũng là một bài in được dấu ấn đậm và bền trong nhiều thế hệ bạn đọc. Tác giả của nó – thi sĩ Thế Lữ, là một nhà thơ tài năng, người có công đầu trong phong trào Thơ mới. Có thể nói ông đã nhập thân hoàn toàn vào hình tượng con hổ trong bài, mượn con hổ để bộc lộ tâm sự của một thanh niên trí thức trước cuộc đời tù túng, nô lệ.

Một khía cạnh rõ nét của tâm sự ấy, là nỗi “tủi nhục” vì hiện trạng của thân phận:

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,

Chịu chung bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Nỗi tủi nhục đến cao độ, chuyển thành phẫn uất, căm hờn. Bị mất tự do trong “cũi sắt”, đành bất lực “nằm dài trông ngày tháng dần qua”, lại còn bị “lũ người kia”, tác giả muốn ám chỉ ai đây? Phải chăng bọn thực dân người nước ngoài xa lạ nhào cợt, khinh thường:

Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm

Xưa kia ta từng là “chúa tể của muôn loài”, “oai linh” ta ngự trị cả núi cao rừng sâu. Nay bị nhốt cũi, cùng thân phận “làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi” bị coi cá mè một lứa với bầy gấu dở hơi, cặp báo nông nổi! Nhục nhã, uất hận biết bao.

Cùng với “niềm uất hận ngàn thâu” ấy, là thái độ khinh ghét. Và khinh cũng đến cao độ như căm hờn, con hổ này không có gì lưng chừng, nửa vời cả. Nó ghét tất cả những cảnh tượng môi trường xung quanh, từ:

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối.

Cho đến:

Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém.

Nó khinh ghét tất cả cái môi trường áp đặt giả tạo mà “lũ người kia” đã thiết kế bày đặt ra. Nó nhận ra tất cả chỉ là trò nhái lại, là lối “học đòi” cái môi trường sống đích thực của nó xưa kia, cái “cảnh sơn lâm bóng cả, cây già – với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi” mà nó không thể nào quên được, mà nó mãi mãi nhớ thương. Phải chăng tâm sự của con hổ ở đây, một lần nữa lại phản chiếu tâm sự của chàng thanh niên Nguyễn Thế Lữ – người từng có thời hoạt động trong một “hội kín” yêu nước? Cái tâm sự bất bình, phủ định thứ văn minh “Tây Tàu nhố nhăng” đang thay thế cho những “vẻ hoang vu” của “bóng cả cây già” “những đêm vàng bên bờ suối”, “những bình minh cây xanh nắng gội”… một cách hình dung, gợi nhớ đến những giá trị văn hoá cổ truyền của Tổ quốc?

Xem thêm:  Bài văn Tả con thỏ năm 2021

Nhưng có lẽ luồng tâm sự xuyên suốt, điều canh cánh thường xuyên hơn cả trong lòng con hổ là nỗi nhớ – một nỗi nhớ vừa da diết xót xa, vừa mênh mang hoành tráng. Đó là nỗi “nhớ rừng” cao cả, thiêng liêng, đúng như đầu đề bài thơ xác định. Ta dễ dàng nhận thấy hai đoạn thơ tả nỗi nhớ này tập trung, đậm đặc nhất – đoạn thứ hai và thứ ba trong bài – là hai đoạn có nhiều cảnh sắc huy hoàng hấp dẫn nhất, có nhạc điệu lôi cuốn say mê nhất. Nhớ làm sao bóng dáng xưa kia của ta “bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng” giữa “sơn lâm bóng cả, cây già – với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi”, đẹp đẽ, uy nghi, hùng tráng biết bao! Nhớ làm sao.

… những đêm vùng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

… những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm cảnh giang sơn ta đổi mới?

… những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca, giấc ngủ ta tưng bừng?

Những kỉ niệm mới lộng lẫy, hùng vĩ, nên thơ nên nhạc biết bao!

Có thể nói Thế Lữ đã chứa chất vào lời con hổ trong vườn này tâm sự của các thế hệ cùng lứa với nhà thơ. Và cũng không riêng gì một thế hệ. Ai là người Việt Nam còn chút lòng yêu nước, còn biết nghĩ, mà chẳng cảm nhận xót xa nỗi hờn mất nước? Ai đã từng đọc qua lịch sử dân tộc, có ít nhiều ý thức về nền “văn hiến” đã lâu “của đất nước, mà chẳng ngán ngẩm với thứ văn minh hào nhoáng pha tạp thời thực dân? Người Việt Nam chưa mất gốc nào mà chẳng ủ ấp hi vọng được “thênh thang (…) vùng vẫy”, được “ngự trị” trên “nước non hùng vĩ” của mình, tương tự chú hổ ở vườn thú kia vẫn không nguôi “giấc mộng vàng to lớn” của nó.

Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng – mẫu 4

Trước hết, ta cần hiểu vì sao tác giả bài thơ lại mượn “lời con hổ ở vườn bách thú”? Chú thích cho một hình tượng thơ có lẽ không ngoài một dụng ý: Tránh đi sự suy diễn, hiểu lầm. Hình tượng con hổ cho dù có là một sự hóa thân của thi sĩ, nó vẫn là một chủ thể trữ tình, nhất quán và toàn vẹn. Đó là phần nổi của bài thơ. Còn phía sau, phần chìm có thể liên tưởng đến hai lớp nghĩa có cả ý thức giải phóng cá nhân (cái tôi), có cả tâm trạng nhớ tiếc, ru hoài của một dân tộc đang bị xiềng xích, đang khao khát tự do, với thái độ phủ nhận thực tại mà hướng về quá khứ oanh liệt vàng son. Bởi vậy, khi phân tích bài thơ không thể bỏ qua cái nhìn chính diện.

Cái nhìn đối mặt với cảnh ngộ bị cầm tù của con hổ, cơ sở của niềm u uất không nguôi, là một cái nhìn đầy bi kịch. Tính chất bi kịch này cần được hiểu theo hai cấp độ: Một là hoàn cảnh đổi thay, nhưng con hổ không đổi thay. Sự “không đổi thay” của con hổ ở cả hai phương diện chủ quan và khách quan: Một mặt nó không cam chịu hạ mình và một mặt nữa: Nó không chấp nhận hoàn cảnh. Không chịu hạ mình vì con hổ luôn ý thức mình là một bậc đế vương, ngự trị trên cái ngai vàng vĩnh hằng của bậc chúa. Còn thái độ không chấp nhận hoàn cảnh cũng là từ đó mà ra: Chấp nhận môi trường sống đã đổi thay, nó không còn là chính nó. Không chấp nhận, không tự đổi thay tạo nên độ lệch và sự giằng xé dữ dội. Tâm trạng nguyên khối ấy tượng hình lên một con hổ với niềm u uất khôn nguôi chạy dọc bài thơ, đi vào từng câu thơ như những hồng cầu để nuôi cơ thể.

Hai đoạn thơ nói về hoàn cảnh đã đổi thay (đoạn 1 và đoạn 4) tạo nên xung đột, một xung đột không thể dung hòa, thật là ngột ngạt. Nhưng trong cái vòng xoáy của tâm tư ấy, mỗi đoạn thơ là một nỗi đau riêng. Có nỗi đau của sự bất đắc chí, bị “sa cơ”, lỡ vận phải rơi vào cảnh ngộ trớ trêu (đoạn 1), phải chấp nhận một cảnh ngộ không thể nào chấp nhận: Vừa giả tạo vừa tầm thường (đoạn 4). Đối lập thứ nhất (đoạn 1) là đối lập giữa hai giống loài không thể nào là ngang bầy, là đồng loại, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với cặp báo yên phận, với bọn “gấu dở hơi”. Ý thức về sự không thể “ngang bầy” nay đang phải chịu “ngang bầy” tạo nên cú sốc đầu tiên vô cùng chua chát:

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt”

Khác với hình thức của câu thơ thất ngôn kiểu cũ, câu thơ tám chữ đó là một sự cách tân, nhưng sự đột biến của cuộc cách mạng thi ca phải nói đến âm điệu,

Ở tỉ lệ những thanh bằng, thanh trắc của câu. Trong câu thơ Đường luật, tỉ lệ đó ngang bằng hoặc xấp xỉ ngang bằng, có sự phối hợp đan xen, còn ở đây tần số những thanh bằng bị áp đảo, không những thế, các thanh trắc đều dồn trọng tải vào đầu và cuối câu như những gọng kìm rắn chắc, những kim khí va chạm nhau. Uất ức và bất lực là tâm thế của các sinh vật bị giam cầm. Nhất là với giống loài không chịu đựng được xiềng xích, giam cầm như loài hổ. Bất lực uất ức cộng với bất lực buông xuôi là đặc tả chân dung đầy ấn tượng ở hai câu đầu. Nó được phân bố tinh vi đến từng âm tiết. Nếu câu đầu, những âm thanh chói tai đặc quánh lại thì đến câu sau, nó mất hút, nó bị thay thế: Những âm thanh bằng xuôi tai, trải rộng, lan xa không còn sinh khí nữa. Cái khinh và cái tức của con hổ chỉ còn được nén lại trong lòng như một nỗi niềm u ẩn. Nó cứ dày thêm trầm tích của nỗi đau. Không phải ngẫu nhiên trong đoạn thơ tiếp nối sáu câu, có đến bốn câu nói về loài người. Đành rằng ở đây, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với đồng loại (gấu, báo) đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, nhưng có lẽ niềm căm phẫn với con người, với giống người mới đủ sức tạo nên một giọng thơ hằn học. Là bởi vì với con hổ thì loài báo, loài gấu vốn là những con vật hiền lành, vô hại, nhưng với con người đã diễn ra một tương quan đối nghịch giữa thắng và thua.

Một sự thua thắng này, oan uổng thay, không do thực tài thực sức (có lẽ loài người chỉ hơn loài hổ ở sự túc trí đa mưu). Có lẽ ra phải thua đã thắng, đôi mắt hạt đậu đã có thể chế giễu cả rừng thiêng. Sự hạ nhục đối với loài hổ, đau đớn thay là vị thế phải tôn thờ, sùng bái (ông ba mươi) chỉ còn là “trò lạ mắt, thứ đồ chơi”. Còn câu thơ nói về cặp báo, bọn gấu chẳng qua chỉ là một thứ vĩ thanh của cái mặt bằng hèn kém mà con hổ phải rơi vào. Nếu đoạn một của bài thơ nói về sự thay đổi vị trí thì đoạn bốn của bài thơ nói về tâm trạng của con hổ khi phải đối mặt với cái mà nó không muốn đối mặt. Tâm trạng ấy giống như một quả bóng bị xì hơi, ấy là tâm trạng của giống chim trời bị trói cánh. Cũng là cảnh rừng thiêng nhưng chỉ là sự “học đòi bắt chước vẻ hoang vu”, nó tầm thường nhạt nhẽo. Nó có đủ nhưng thật ra không có gì, vì cảnh thiên nhiên tưởng như là có cả, nhưng linh hồn của nó thì không:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém…

Nếu sự đổi mới của thơ ca bắt đầu từ nhịp điệu, thì đây là một trường hợp mở đầu, một ví dụ điển hình. Nếu ngắt nhịp, ta có câu một: 2/2/2/2, câu hai: 5/3, câu ba: 3/5 thật là phóng túng. Nó diễn ra sự chật chội, bị bó buộc, gò bó cần phải phá tung ra để nói được cái thật của cảm nghĩ, cái khao khát được tháo cũi sổ lồng.

Ghìm nén và tung phá, ấy là xung lực độc khởi của từng đoạn thơ. Nó cũng còn là cảm hứng của toàn bộ bài thơ nếu nhìn một cách vĩ mô tổng thể. Ngay sự đan cài giữa cái hôm nay và cái hôm qua, cái mất, cái còn, cái nhạt tẻ và cái huy hoàng ngày xưa của nó, tất cả đều hỗ trợ cho nhau, soi chiếu vào nhau mà trở nên lấp lánh. Tuy nhiên, về cơ bản, bài thơ như một hoài niệm. Ngày xưa mới là cái đích cuối cùng, là cứu cánh. Cội rễ mà niềm say đắm hướng về không phải là hôm nay mà từ hôm nay hướng về hôm qua, về cái một đi không trở lại: “Nơi ta không còn được thấy bao giờ”, “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa”. Tiếng nấc nghẹn ngào ấy hướng về cái phía rừng thiêng — nguồn cội của niềm tự hào khi “hầm thiêng” đang là bá chủ.

Phủ nhận cái trước mắt, cái hiện thời, lối thoát chỉ còn hai hướng: Trở về quá khứ hoặc ngưỡng vọng tới tương lai. Con hổ không có tương lai, nó chỉ còn quá khứ. Đối lập hai vùng không gian ấy, cảm hứng lãng mạn trào dâng những giai điệu say mê. Quá khứ đã trở nên một vầng hào quang chói lọi khác thường do những tưởng tượng được đẩy lên đến mức tột cùng sảng khoái. Thơ mới nói riêng và chủ nghĩa lãng mạn nói chung đã tự tạo cho mình một miền đất, một khoảng trời riêng để tự do vùng vẫy. Cái lớn lao. Cái dữ dội, cái phi thường trong màn sương bí ẩn lung linh, huyền ảo của quá khứ hiện ra có ý nghĩa giải thoát “một khối căm hờn” không gian của hiện tại. Ấy là một quá khứ rất đặc trưng của loài hổ: Cả thời gian, cả không gian, cả niềm nhớ tiếc cái thuở huy hoàng một đi không trở lại. Các yếu tố thuộc ngoại cảnh và thuộc nội tâm trên đây được nhào nặn lại nhằm khắc họa, làm nổi bật chủ thể trữ tình là nhân vật tự gọi là “ta” nhưng thực chất là “cái tôi” bừng thức, “cái tôi” trung tâm của một “thời oanh liệt”. Cảnh rừng thiêng vì sao có lúc được gợi ra với “bóng cả”, “cây già”, khi thì bóng tối âm thầm với “lá gai cỏ sắc”, cả những cỏ hoa không tuổi không tên? Ba cung bậc của tự nhiên gắn với độ trường cửu, vĩnh hằng, với sự hoang dã, âm u và với cả một nền hoa cỏ vô danh nhằm tôn vinh một nhân vật thần thánh mà tất cả phải cúi đầu “Ta biết ta chúa tể cả muôn loài”. Nhân vật thần thánh đường bệ, uy nghiêm ấy hiện ra bằng một bức tranh đặc tả, cả ngoại hình và sức mạnh bên trong ghê gớm. Một bước chân của loài hổ, một vũ điệu lượn vờn tự nhiên của nó không giống đồng loại, không giống một ai. Sự phong phú và nhất quán trong hệ thống động tác ngoại hình này là để chuẩn bị cho một phút cao trào khi tất cả trở thành sở hữu riêng của nó, do nó chế ngự:

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

à khiến cho mọi vật đều im hơi.

Cảm giác của người đọc chúng ta là con hổ đang ngược thời gian, bơi trong dòng hoài niệm miên man không phải là vô cớ. Chính con hổ cũng tự nhận: “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ”. Những câu thơ tám chữ vốn có dung lượng lớn hơn câu thơ thất ngôn được liên kết bằng những từ nối ở đầu nhịp, đầu câu chẳng phải là vô tình như những điệp khúc bắc cầu cho “tình thương nỗi nhớ” ấy dài ra:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,

Với khi thét khúc trường ca dữ dội…

Cũng đều là những hoài niệm về quá khứ, nhưng đoạn ba không giống với đoạn hai vì trước hết nó gắn với nỗi xót xa, nhớ tiếc (còn đoạn hai là đặc tả chân dung). Nỗi nhớ tiếc đến quặn thắt nỗi lòng ấy tạo ra bởi ngữ điệu riêng. Những câu “đầu” như xát muối cứ như kiếm tìm vào một hoang vắng, xa xôi đứng ở đầu câu để kết thúc bằng những dấu hỏi tu từ như oán than, như ngơ ngác:

Xem thêm:  Bình luận câu tục ngữ Đi một ngày đàng, học một sàng khôn năm 2021

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối…

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn…

Đâu những bình minh…

Cũng là cái thực (trong quá khứ) với con hổ, nhưng từ đoạn hai, rồi đoạn ba, và kết thúc bằng đoạn năm, cái thực ấy cứ bị đẩy đi để mỗi lúc một xa hơn. Cảm xúc thơ mỗi lúc một chới với. Chỗ đứng thời gian không còn xác định nữa, câu thơ vội vàng, gấp gáp như níu kéo lại một chút gì đó của ngày xưa.

Hình tượng con hổ vừa là thi sĩ vừa là bậc đế vương rực rỡ lên trong ánh chiều sắp lặn, chiều kích, tầm cỡ con hổ cứ lớn dần lên. Sự vận động đầy tính bất ngờ và biến ảo tạo được những câu thơ thật hay, với bài thơ nói riêng, với cuộc cách mạng nhằm hiện đại hóa thơ nói chung thời ấy. Nhiều người khen đoạn thơ như một bức tranh tứ bình có cả đêm, ngày, sáng, tối. Nhưng có lẽ cần chú ý nhiều hơn đến hồn chữ, hồn thơ. Đêm vốn là đêm tối (bóng âm thầm, hang tối) trở thành đêm vàng thơ mộng, vẫn là con suối ngàn sâu và ngàn xưa nhưng lộng lẫy hẳn lên. Nó truyền dẫn được vào tâm hồn con hổ, để là con hổ thi nhân (“Ta say mồi đứng uống ánh trăng tàn”). Cũng vậy, “ngày mưa” vốn buồn bã, đìu hiu, đơn điệu biết chừng nào, nhưng với một tâm hồn vừa mới được gột rửa để không còn là trần tục nữa, con hổ có một cái say khác, lặng lẽ thôi mà rạo rực ở bên trong: “Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”. Trong bài thơ có hai câu thật sự mới mẻ trong cách đặt câu thì một dành cho hai đoạn: (“Với khi thét khúc trường ca dữ dội”), còn một cho đoạn ba: “Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”. Đây là hai trường hợp dùng đảo ngữ rất đắt, nó tạo được cái hình ảnh kì lạ, lớn lao của loài hổ: Hoặc với nó, thiên nhiên phải nâng tầm lên cho tương xứng, hoặc nó không chỉ là nó, nó đang vươn tới cái chiều kích vũ trụ, cái vô tận vô cùng.

Đoạn năm của bài thơ, như trên đã phân tích, vẫn tràn chảy trong dòng hoài niệm, nhưng cái ảo của quá khứ xa xôi dần dần đã bị cái thực thay vào. Mà đã thực thì đâu còn là thơ nữa. Quá khứ không tồn tại trong dạng hình ảnh chính là vì thế. Chỉ là ý tưởng trong câu “Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ”. Còn câu “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa” cũng chỉ là lặp lại câu “Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”. Cái thực khi hiện ra chỉ còn sự chật chội, tù túng, còn ước mơ, còn tưởng tượng chỉ là một ảo tưởng ngậm ngùi đau xót bao nhiêu:

Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn

Để hồn ta phảng phất được gần ngươi…

Bất lực, bế tắc, tất cả chỉ còn là một ước mơ hão huyền. Nhưng con hổ dù mất môi trường sống của loài hổ vẫn giữ được một niềm tin, không thỏa hiệp với hoàn cảnh bị tước đoạt và đổi thay. Cái còn lại ấy vẫn là một cái gì đáng quý.

Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng – mẫu 5

Với nhân vật con hổ trong vườn thú được miêu tả như một tính cách dữ dội, lớn lao, đầy dằn vặt và khát vọng. Nhớ rừng ít nhiều đã hoà vào cái mạch đã từng đem lại cho thi ca biết bao nhiêu danh tác. Lẽ dĩ nhiên, không ai dám đặt con hổ của bài thơ bên cạnh những tầm cỡ như Prômêtê bị xiềng hay Hamlet hay Người tù xứ Capcadơ. Nhớ rừng mới chỉ là tiếng nói đớn đau của một kẻ đã mất hết niềm tin được tự do, mất hết ước mơ chiến thắng. Con hổ ở đây đã không thể làm được gì hơn là “nằm dài” trong cũi sắt, để “trông ngày tháng dần qua”, và nói về cái thuở oanh liệt vẫy vùng như những tháng ngày không bao giờ trở lại. Cũng không có trong nó cái khát khao tương truyền đã được người anh hùng Nguyễn Hữu cầu diễn tả trong những vần thơ lồng lộng ngợp say:

Bay thẳng cánh, muôn trùng Tiêu, Hán

Phá vòng vây, bạn với kim ô.

Có lẽ sẽ không là khiên cưỡng: Nếu nói rằng Nhớ rừng với hình tượng con hổ nằm dài ấy, đã tạo nên tư thế của những con người đã thôi nghĩ đến hành động, những con người mà nhiệt tình làm cách mạng, mà hoài bão muốn góp phần mình vào một sự đổi thay đã không còn.

Thế nhưng, con hổ, hình tượng trung tâm của bài thơ, dù có chịu mất tự do, nhưng cũng không chịu mất đi niềm kiêu hãnh. Trong khổ đau, trong cảnh “tù hãm”, trong nỗi “nhục nhằn”, nó vẫn biết tự phân biệt mình với những kẻ đã đi hoàn toàn tầm thường đồng hoá đến cả tinh thần, ở đây, vấn đề không phải là xem xét “tác phong quần chúng” của con hổ, phê bình nó “không một chút ưu ái gì đối với những con vật như con gấu, con báo cùng số phận như nó và nằm sát ngay cạnh chuồng nó” như ai đó đã bàn. Ở đây, cũng như chim ở trong lồng, ở cả Prômêtê bị xiềng và Hamlet nữa, sự đối lập giữa hai hạng người, hai cách sống là cách thức nghệ thuật vẫn thường dùng để làm nổi bật lên cái kích thước cao cả và tô đậm thêm cảm hứng đầy tính bi kịch của một tâm hồn bị khổ đau chứ nhất quyết không chịu hạ mình trong bất hạnh.

Thế Lữ, ít nhất là một lần trong một đời thơ, đã cố gắng xây dựng cho mình một hình tượng thơ như thế. Con hổ ở Nhớ rừng biết mình chiến bại nhưng vẫn chưa chịu làm tôi tớ cho sự “tầm thường, giả dối” của cảnh ngục tù. Nó bất lực, nhưng không hoàn toàn khuất phục và thoả hiệp. Nó vẫn “ghét những cảnh không đời nào thay đổi”, nghĩa là còn ước ao những sự đổi thay. Bị giam thân trong lồng sắt chật, nó vẫn tha thiết vươn tới những chân trời rộng rãi của thế gian với “giấc mộng càng to lớn”, và của thời gian với “niềm uất hận ngàn thâu”. Bài thơ, cho tới cùng, vẫn thể hiện một tinh thần, chối từ thực tại, dẫu mới chỉ là sự chối từ trong mộng tưởng mà thôi.

Sự xung đột, chống đối quyết liệt, thường xuyên, không thể dung hoà giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại vật với nội tâm, giữa thấp hèn với cao thượng chính là cơ sở để kết cấu nên toàn bộ bài thơ. Có cảm giác như nghe được từ Nhớ rừng một bản xônát bốn chương với sự luân chuyển, đan xen của hai nhạc đề tương phản, trong đó, chủ đề chính, chủ đề “nhớ rừng” bỗng đột ngột chuyển vút lên sau những nốt nhạc đã ngày càng chậm chạp, buồn nằm ở chương đầu, và cứ vang to mãi, dào dạt mãi, dâng mãi đến cao trào với tất cả niềm phấn hứng của tâm linh để rồi chợt tắt lặng đi nặng nề, uất nghẹn. Và cuối cùng trong sự quật khởi chủ đề chính lại quay trở lại không còn hùng tráng được như trên, những thiết tha, những nuối tiếc. Bài thơ kết thúc trong tiếng gọi tha thiết với rừng già của một kẻ biết mình đã sắp phải chấm dứt cuộc vượt tù trong tâm tưởng. Như thế bằng việc luôn luôn chuyển đổi tình cảm và giọng điệu thơ sang phía đối lập với nó, nhà thơ đã tìm đúng cái cách thức hữu hiệu để diễn tả hết các cung bậc cảm xúc của một tâm trạng cô đơn và đầy day dứt.

Nhưng chưa hết, sự hướng tới những khát vọng mãnh liệt, cách chơi những tương phản mãnh liệt, nghĩa là một nét thi pháp lãng mạn chủ nghĩa, còn được Thế Lữ sử dụng khá thành công trong phạm vi một đoạn, một chương. Chẳng hạn, hãy đọc hai câu thơ đầu tiên. Hãy xem xét một chút kĩ hơn đoạn thơ thứ hai, đoạn thơ hay nhất toàn bài, đoạn thơ mà với nó, tác giả – nói lên cách của A-đư Muytxê – đã đem lại cho ta cả một “bữa tiệc đời” của âm thanh, của đường nét và màu sắc. Ở đây tác giả phải thực hiện một nhiệm vụ cực khó khăn: “Diễn tả cái quyền thế độc tôn của vị chúa sơn lâm trên cái nền của ảnh thiên nhiên hùng vĩ”. Phải miêu tả con hổ như thế nào một khi đã huy động vào bài thơ cả “tiếng gió gào ngàn” và “giọng nguồn hét núi”, cả “những đêm vắng bên bờ suối” tràn ngập “ánh trăng tan” và những cánh rừng chiều, trong buổi hoàng hôn, trông như “lênh láng máu”?

Giải pháp mà tác giả đã tìm ra – dù tự giác hay không vẫn là đối lập, một sự đối lập có thể nói là lộng lẫy. Nhà thơ đã kể cho con hổ lấy sự trật tự, nhịp nhàng để chế ngự cảnh đại ngàn ghê gớm nhưng hỗn độn, và chế ngự cái động của đất trời bằng cái tĩnh uy nghi của bản thân. Giữa lúc cảnh sơn lâm đang gào thét lên “khúc trường ca dữ dội”, con hổ “bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng”, và thêm nhiều dường như bởi đó mà âm thầm trở lại. Con hổ say, đứng uống ánh trăng và đợi chết mảnh mặt trời, con hổ lặng ngắm giang sơn khi bốn phương ngàn đang chuyển động, con hổ ngủ trong khi lao vật tưng bừng hợp tấu khúc bình minh. Trong sự đối lập ấy của các gam màu nghệ thuật, thiên nhiên hùng tráng đã trở thành cái nền để làm tôn lên hình dáng của một quyền uy tối thượng.

Nhớ rừng được sáng tác vào những năm phong trào Thơ mới khai sinh, vì thế, thật là kì lạ trong những ngày uống nước ấy, nó đã đạt tới vẻ đẹp có lẽ đã có thể gọi là cổ điển. Từ tình cảm cho đến thể thơ, nó mang một sức sống, một vẻ phóng khoáng vẫy vùng mà “thơ cũ” không thể có, nhưng lại không hề có sự xộc xệch và thiếu cô đúc mà nhiều bài thơ mới buổi đầu tiên ấy đã mắc phải. Có những câu, từ nội dung ý nghĩa đến khuôn âm thanh điệu và sự ngắt nhịp của lời thư đều phô bày một giá trị tạo hình đặc sắc: “Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng” Có thể dẫn Lơcôngtơ đư Lin chẳng hạn, để chứng minh Thế Lữ đã chịu ảnh hưởng của thơ phái Thi Sơn. Song lại khó có thể cho rằng những câu thơ như thế này, đặt trong bố cục chung của hai bài thơ, lại “giống như những bức ren bằng cẩm thạch… hơn là giống với những lời thơ sinh động của con người”, như M.Gorki đã nói về chính những nhà thơ Thi Sơn ấy.

Cho nên, cũng có thể hiểu được vì sao Vũ Đình Liên lúc ấy lại nói bằng chỉ hai câu:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.

“Cũng có sức mạnh như một tuyên ngôn (manifeste) để bênh vực cho Thơ mới”, về mặt ấy, Nhớ rừng chính là một trong những viên đá tảng đầu tiên và chắc chắn nhất của một nền thơ, mà vượt lên trên tất cả sự phức tạp của nó vẫn là một phần đóng góp không thể bác bỏ cho sự tiến lên của nghệ thuật thơ ca của nước ta.

Là sự hoài vọng của một kẻ dẫu sao cũng đã thấy bất lực rồi vồ một “chốn thiên đường đã mất”. Nhớ rừng cũng chỉ nằm trong phạm trù của chủ nghĩa lãng mạn thông thường, mà cơ sở của nó, như Phaghê đã xác định lừ lâu, là “sự ghê tởm đối với thực tại và nguyện vọng mãnh liệt muốn thoát ra ngoài thực tại”.

Song cũng có thể giải thích được hiện tượng nhiều chiến sĩ cách mạng lúc đó thích và thuộc bài thơ. Chính cái chất bi tráng đã làm cho Nhớ rừng khác với phần nhiều các bài thơ lãng mạn bấy giờ, kể cả thơ của chính Thế Lữ, dù sau này nhà thơ còn viết Tiếng hò bên sông hay Giây phút chạnh lòng. Sự nổi loạn trong tâm tư con hổ đang “gặm một khối căm hờn trong cũi sắt” kia rất có thể đã làm nặng nề thêm, để con người cảm thấy chán ghét thêm cái ách áp bức nặng nề của một cuộc đời đang cần phủ định. Và giấc mơ tráng lệ ấy, gây ra một sự hống hách, hão huyền, vẫn có khả năng làm hăng say thêm một tinh thần cách mạng, làm dậy thêm chất men của cái “khát vọng muốn trở nên tốt đẹp hơn bây giờ”, điều mà nhà văn cách mạng M.Gorki cho là duy nhất thiêng liêng.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Văn mẫu