Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam năm 2021


Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam năm 2021

Bài văn Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam gồm dàn ý chi tiết, 7 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn.

Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam – mẫu 1

Quê hương Việt Nam nổi bật lên những dòng sông xanh mát, chảy xuống tâm hồn con người những hình ảnh sinh động hấp dẫn nhẹ nhàng, nó mang một vẻ đẹp thanh tao thơ mộng. Qua hai bài thơ Người lái đò sông ĐàAi đã đặt tên cho dòng sông, chúng ta có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam đẹp lung linh, mơ mộng đến tâm hồn của mỗi con người.

Hình ảnh dòng sông Việt Nam được hai tác giả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả thật chi tiết và sinh động trong hai tác phẩm, ở đây điểm chung mà hai tác giả này thể hiện đó là đều miêu tả vẻ đẹp của dòng sông thơ mộng, ở đó con người được sống và làm mát tâm hồn bởi vẻ đẹp say đắm lòng người. Vẻ đẹp của dòng sông quê hương được nhìn từ nhiều góc độ, đó là cách quan sát mà hai nhà văn đã sử dụng để nói về vẻ đẹp của dòng sông quê hương.

Đối với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng sông hiện lên với những vẻ đẹp nhẹ nhàng, tình tứ của người con gái Việt Nam, sông Hương mang vẻ đẹp mãnh liệt như bản trường ca, Rừng già, khi bí ẩn, khi lại dịu dàng đằm thắm. Nó nhẹ nhàng, bí ẩn, đôi khi đem lại cho người nhìn cảm giác bâng quơ, khó hiểu, ở đây tác giả đã nhìn sông Hương qua cách thức thể hiện từng câu chữ, hình ảnh trong tác phẩm.

Vẻ đẹp của dòng sông Hương không chỉ để lại cho người đọc cảm thấy đây là một dòng sông mang vẻ đẹp hoang dại, mang đậm nét tự nhiên, sông Hương còn giống như cô gái Di gan, phóng khoáng và man dại, sự so sánh gợi ra nhiều liên tưởng về dòng sông, vẻ đẹp đó không đâu có thể sánh bằng.

Sông Hương như một bà mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở, ở đây hình ảnh dòng sông Hương như suốt mát, như bà mẹ làm mát lên tâm hồn của những người con trong vùng xứ sở, ở đó dòng sông nhẹ nhàng, chảy xiết trong tâm hồn của những người thi sĩ. Chỉ với những cách miêu tả, so sánh đầy ấn tượng, chúng ta cũng có thể phần nào liên tưởng đến vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam, nó thật phong phú, mang nhiều màu sắc tươi tắn. Trong những vẻ đẹp đó có lẽ dòng sông Hương còn được so sánh với vẻ đẹp của những cô gái hoang dại, nằm mơ màng. Dòng sông Hương không chỉ thể hiện vẻ đẹp nhẹ nhàng, mà đây còn là vẻ đẹp của sự cố kính lâu đời, nó là những vẻ đẹp kì dị huyền bí.

Là chứng nhân lịch sử, hàng ngàn năm, nó là minh chứng cho những năm tháng đấu tranh của dân tộc Việt Nam, những điều đó đã tạo nên một vẻ đẹp lịch sử cho dòng sông Hương. Nếu như sông Hương được miêu tả với những vẻ đẹp kì bí, cổ kính và nhẹ nhàng thì dòng sông Đà lại được Nguyễn Tuân miêu tả với hai xu hướng tiêu biểu đó là hai nét tính cách của dòng sông, lúc trữ tình, lúc hoang dại, hung bạo, ở đây hình ảnh của dòng sông Đà cũng được miêu tả dịu dàng, tuôn dài như mái tóc của người con gái Di Gan.

Hình ảnh đó đều gợi lại cho thi sĩ những cảm xúc riêng, đó là vẻ đẹp trữ tình, mơ mộng, hình ảnh đó gắn bó, nhẹ nhàng và da diết, nó làm cho tâm hồn của những người thi sĩ thêm chút nhẹ nhàng.

Có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam đã được khái quát hết trong hai con sông tiêu biểu trên và đã được tác giả khắc họa, so sánh với những vẻ đẹp của sự trù phú, của những vẻ đẹp linh thiêng, dòng sông xanh mát chảy trong tâm hồn của người con đất Việt, những hình ảnh đó đều sinh động, nhẹ nhàng và nó gợi lại cho người đọc một cảm giác gần gũi, hơn với thiên nhiên.

Hình ảnh của dòng sông Đà không chỉ nhẹ nhàng mà nó còn được miêu tả qua nhiều hình ảnh sinh động, nhiều chi tiết hấp dẫn như cảnh đẹp nơi đây đi hết vùng thượng nguồn đến hạ nguồn ta đều bắt gặp cảnh đẹp, hình dáng của con sông Đà còn được so sánh như người con gái có mái tóc: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc… xuân”. Tất cả những hình ảnh đó đều ẩn hiện lên những vẻ đẹp, những hình ảnh mang đậm giá trị, rõ nét về cảnh vật cũng như giá trị mà mỗi bài thể hiện, hình ảnh đó không chỉ đưa lại cho người đọc một cái nhìn mới mẻ và sâu sắc hơn về dòng sông của Việt Nam.

Mỗi dòng sông mang một vẻ đẹp riêng, nhưng có lẽ điểm chung mà những con sông này gộp lại đó là những vẻ đẹp trữ tình, khi huyền bí khó hiểu nhưng nó cũng đều mang vẻ đẹp nhẹ nhàng, trữ tình, duyên dáng, hình ảnh đó đều góp phần làm nên một cái riêng, một nét tính cách đặc trưng cho những vùng miền khác nhau, hình ảnh về dòng sông Hương qua nhiều cách nhìn, cũng như dòng sông Đà trữ tình đều mang vẻ đẹp trong sáng, nhẹ nhàng của dòng sông quê hương, đất nước.

Những bài văn nói về vẻ đẹp của dòng sông quê hương đất nước, đều mang lại những vẻ đẹp riêng, đó là vẻ đẹp huyền bí, nhẹ nhàng và mang lại giá trị sâu sắc cho người đọc.

Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam – mẫu 2

   Đề tài những dòng sông luôn trở đi trở lại trong biết bao nhiêu trang thơ trang văn của những người nghệ sĩ. Nếu như con sông Hồng được miêu tả trong tứ thơ Tràng Giang của Huy Cận thì một lần nữa hình ảnh những dòng sông lại được Nguyên Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn để làm nên hai tác phẩm đó là Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông?. Qua đó vẻ đẹp của hai con sông Đà và sông Hương xứ Huế được hiện lên thật đẹp và nên thơ. Có thể nói ngoài vẻ đẹp hung bạo và rậm rộ như bản trường ca của rừng già của hai dòng sông thì chúng ta còn thấy được vẻ đẹp trữ tình đầy thi vị của chúng.

   Trước hết những con sông Việt Nam hiện lên qua vẻ đẹp của sông Đà và sông Hương qua vẻ đẹp về hình dáng. Vẻ đẹp ấy được bút pháp và tài nghệ của hai nhà văn tài hoa ấy thể hiện rất tinh tế và làm cho người đọc liên tưởng được những hình ảnh hấp dẫn.

   Trước hết là hình dáng sông Đà, với sự tài hoa uyên bác của mình nhà văn Nguyễn Tuân đã mang đến trước mắt ta những vẻ đẹp vô cùng đẹp của con sông chỉ chảy riêng một hướng đó. Chính vẻ đẹp trữ tình của nó đã làm đẹp hơn và lấn át đi những vẻ đẹp hung bạo kia. Có thể nói vẻ đẹp hung bạo của nó khiến cho người ta khiếp sợ bao nhiêu thì vẻ đẹp trữ tình này lại khiến cho người đọc yêu nó , say cái đẹp của nó bấy nhiêu.

   Sông Đà từ trên cao nhìn xuống nó mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ Tây Bắc. Nhìn từ trên cao ấy sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình… đốt nương xuân”. Phải chăng đó chính là mái tóc của người thiếu nữ Tây Bắc đẹp như làn nước vậy. Đặc biệt từ trên cao xuyên qua những đám mây ấy nhìn xuống vẻ đẹp ấy thật sự giống như mái tóc mượt mà của người con gái xứ Hoa Ban ấy. Không những thế mái tóc ấy còn hiện lên đẹp hơn khi ” Đầu tóc chân tóc ẩn hiện trên mây trời Tây Bắc”. hình ảnh mang đến cho ta một sự hấp dân và nên thơ lạ thường con sông hung bạo với những trận bày thạch đá ấy, những thác nước dữ tợn ấy mà giờ đây lại hiền hòa như mái tóc của người con gái vậy. Thế rồi tác giả quan sát kĩ nhìn dòng sông cũng giống cả một dây thừng ngoằn nghèo nữa. Đó chính là vẻ đẹp thướt tha kiều diễm của sông Đà.

   Không những thế sông Đà còn như một người cố nhân lâu ngày gặp lại chốc hiền hòa rồi lại bất ngờ cáu kỉnh lên đấy thôi. Tác giả vẽ lên những hình ảnh của người cố nhân ấy, nó mang vẻ đẹp như ” vui như nắng giòn tan sau kì mưa rầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể thấy với bút pháp tài hoa của mình Nguyên Tuân đã mang đến cho người đọc một người cố nhân đẹp.

   Sông Đà còn trữ tình khi từ lòng sông nhìn sang hai bên bờ. Nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp ấy đã mang đến cho ta những hình ảnh con sông Đà thật hoang sơ cổ kính. Nhìn ” bờ sông hoang sơ như một bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm thuở xưa. Không những thế mà bớ sông còn hiện lên yên ắng lặng lẽ như tờ. Dường như từ thời nhà Lý nhà Trần cũng yên lặng đến thế mà thôi. Nó còn hiện lên với vẻ đẹp tươi tắn của những lá nương ngô mới nhú đầu mùa, cỏ quanh đồi đang ra những nõn búp mới. qua đây ta thấy sông Đà hiện lên thật hoang sơ cổ kính, cái vẻ đẹp ấy có từ thời rất xa xưa đến nay vẫn còn nguyên.

   Đến con sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng mang đến cho chúng ta một nét đẹp của nó không kém phần sông Đà. Sông Hương xứ Huế cũng có những nét đẹp hung bạo nhưng nhà thơ không nói đên nó quá nhiều mà tập trung vào vẻ đẹp trữ tình của nó. Trước khi về đến thành phố thì dòng sông Hương cũng đã là một bản trường ca của rừng già, nó đi qua những bài đỗ quyên đỏ rực.

   Trước hết vẻ đẹp ấy giống như một cô gái Di- gan phong khoáng và man dại, nó dịu dàng đằm thắm hơn bao giờ hết. Nó không còn là bản trường ca của rừng già nữa mà nó mang vẻ đẹp của sụ hiền lành đáng yêu. Không những thế nó còn mang vẻ đẹp của người mẹ phù sa nơi đây. Sông mang về những phù sa màu mỡ để mang đến cho những cánh động Châu Hóa kia.

   Tiếp theo vẻ đẹp của dòng sông Hương còn được thể hiện khi nó vào ngoại vi thành phố. Nhìn sông Hương “như người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại”. Sông Hương cũng giông sông Đà mang một nét đẹp của người con gái. Thế nhưng ở đây sông Hương mang không đẹp như mái tóc người con gái mà đẹp bởi những đường cong quyến rũ. Để vào được đến thành phố sông Hương phải trải qua không biết bao nhiêu đoạn gấp khúc quanh co qua những đồi thiên Mụ… Và chính những đường gấp khúc ấy nó đã tạo nên những đường cong đẹp đẽ cho sông Hương.

   Vẻ đẹp thư hai của cả hai con sông đó chính là màu sắc. Những sắc nước ấy đã mang lại những điều tuyệt đẹp cho sông Việt Nam.

   Với sông Đà thì sắc nước thay đổi theo mùa. Mùa xuân sắc nước sông Đầ xanh màu xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như mặt của một người bầm đi vì rượu bữa” hay là tức giận ai điều gì. Sông Đà chưa bao giờ có màu đen như Pháp đã lếu láo đặt tên nó trên bản đồ.

   Còn sắc nước sông Hương biến đổi theo ngày sớm xanh trưa vàng chiều tím. Đó là những màu sắc đi liền với Huế. Chính vị thế mà ngay cả màu của sông cũng mang hồn Huế.

   Qua đây ta thấy cả hai nhà văn đều mang đến cho chúng ta những vẻ đẹp của hai con sông ấy. Qua những câu văn đầy tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân ta thấy được một vẻ đẹp vô cùng trữ tình của con sông Đà Tây Bắc, và cũng như thế chúng ta cũng biết thêm những nét đẹp của con sông Hương qua bút pháp miêu tả tài tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tóm lại vẻ đẹp của những con sông ấy hay chính là những vẻ đẹp của những con sông Việt Nam.

Dàn ý Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, hai tác phẩm và hình tượng dòng sông Đà và sông Hương.

2. Thân bài

a. Sông Đà

– Khi từ tàu bay nhìn xuống: Sông Đà “tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình… đốt nương xuân”. Sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.

– Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông: Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”. Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.

– Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu: Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”.

→ Hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc.

b. Sông Hương

– Khi về gặp thành phố Huế sông Hương vui tươi hẳn lên, tiếp tục uốn mình mềm mại.

– Sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.

– Tác giả so sánh sông Hương như Điệu “slow tình cảm” dành cho Huế, trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy.

→ Sông Hương khi chảy qua thành phố đẹp trữ tình, thơ mộng, cổ kính, gần gũi, giản dị, sinh động, có tâm hồn và gắn bó với bản sắc văn hóa Huế.

– Sông Hương chia tay thành phố đầy luyến tiếc, vấn vương. Sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông – tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.

→ Dù phải ra đi nhưng sông Hương luôn nhớ về thành phố của nó, vẫn giữ trọn lời thề ân tình thủy chung với xứ này.

3. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật hai tác phẩm.

Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam – mẫu 3

Từ xưa đến nay thiên nhiên luôn là một nguồn cảm hứng vô tận với các nhà thơ, nhà văn làm đề tài sáng tác. Họ luôn tìm thấy trên quê hương có những vùng núi non tuyệt đẹp, những di sản thiên nhiên đáng để con người trân trọng, luyến lưu. Và sông nước chính là một trong những cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, dòng sông với dòng nước chảy, với lịch sử hình thành cũng như những đặc điểm độc đáo về địa lí đã khơi gợi trong lòng các nhà văn những cảm xúc dạt dào nhất khiến họ phải cầm bút và sáng tạo nghệ thuật. “Người lái đò Sông Đà” – Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc Tường được ra đời từ chính sự thôi thúc trước cái đẹp của các nhà văn. Tuy được sáng tác ở những khoảng thời gian khác nhau nhưng ở cả hai tác phẩm đều tái hiện thành công vẻ đẹp trữ tình, đằm thắm của những dòng sông quê hương.

Xem thêm:  Nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Bạn đến chơi nhà”.

Viết về đề tài sông nước đã có nhiều bài thơ, bài văn rất thành công. Ta đã được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác thấm đượm nỗi nhớ nhà trong “Tràng giang” của Huy Cận hay một khung cảnh đìu hiu, cách biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, chỉ là cái cớ để các nhà thơ bày tỏ lòng mình thì đến với “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” người đọc mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút của các nhà văn hình ảnh dòng sông “độc bắc lưu” và hình ảnh dòng sông của xứ Huế mộng mơ hiện lên mang nhiều nét chung độc đáo.

Cả hai nhà văn đều khắc họa hình tượng dòng sông với vẻ đẹp, dáng vẻ phong phú, đa dạng ở nhiều khoảng thời gian, không gian, với điểm nhìn khác nhau. Dòng sông Đà trước tiên được Nguyễn Tuân có lúc nhìn ngắm như một người xa lạ, có lúc lại như một cố nhân thân thuộc; có khi ngắm nhìn sông Đà từ trên cao, khi lại tiến đến cận cảnh để nhận ra rõ hơn vẻ đẹp của nó. Về thời gian, sông Đà được nhà văn chiêm ngưỡng ở cả bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông – mỗi mùa lại đem đến cho tác giả những xúc cảm, ấn tượng riêng. Qua đó nhà văn muốn đưa đến cho người đọc một cái nhìn đa dạng, toàn diện về vẻ đẹp của con sông yêu thương. Với dòng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện thành công vẻ đẹp hoàn chỉnh về nhiều góc độ của nó. Nhà văn đã ghi lại được vẻ đẹp phong phú của sông Hương lúc ở thượng lưu, ở ngoại vi, ở giữa lòng thành phố Huế. Và như vậy dường như vẫn chưa đủ, ông còn mang đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về sông Hương qua vẻ đẹp trong lịch sử, cuộc đời và thi ca. Có thể nói, cả hai nhà văn đã tái hiện thật độc đáo và đa dạng vẻ đẹp của dòng sông gắn bó tha thiết với mình qua nhiều phương diện khác nhau. Chính điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn, sự lôi cuốn cho người đọc, để lại trong họ nhiều ấn tượng đậm nét.

Để có được tác phẩm hay như vậy, để làm nổi bật được vẻ đẹp trữ tình của hình tượng dòng sông đó, tất cả đều phải trải qua ngòi bút tài hoa, uyên bác của các nhà văn. Ở mỗi nhà văn lại có cách diễn đạt và cảm nhận riêng, song họ lại bắt gặp, đồng điệu tâm hồn trong sự khả năng quan sát tinh tế thông qua những liên tưởng, so sánh đầy tính tạo hình, biểu cảm. Vẻ đẹp của dòng sông cũng vì thế mà càng đậm nét hơn, ấn tượng hơn. Cả hai con sông đều được ví như những người con gái trẻ trung mang trong mình những vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình; đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”; “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”… Bằng vốn hiểu biết phong phú, bằng sự liên tưởng, tưởng tượng độc đáo các nhà văn đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên miền sông nước với vẻ đẹp trữ tình đằm thắm tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn người đọc đồng thời làm sống dậy trong họ tình cảm yêu thương, niềm tự hào với vẻ đẹp của quê hương, xứ sở, của Tổ quốc.

Bên cạnh những nét chung độc đáo, vẻ đẹp trữ tình của hai con sông còn mang những nét riêng vô cũng đặc sắc. Đầu tiên là vẻ đẹp của dòng sông Đà. Con Sông Đà hùng vĩ dài trên năm trăm cây số, ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ cái vẻ “đỏng đảnh” để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình – một nét tính khác của sông Đà đươc Nguyễn Tuân dùng ngòi bút tài hoa để miêu tả mang đậm chất chữ tình. Và cũng giống như con Sông Đà khi hung bạo, nó được con người luôn khát khao tìm kiếm cái đẹp kia miêu tả ở nhiều góc độ. Lúc thì nhà văn nhìn con sông từ trên tàu bay, từ trên cao, có lúc lại nhìn qua đám mây mùa xuân, khi nhìn qua đám mây mùa thu, có khi tác giả cảm nhận dòng sông bằng nỗi nhớ của cố nhân, gặp thì vui mừng, xa thì nhớ nhung. Cũng có khi bằng đôi mắt lịch sử, của hồi ức, của quá khứ, và ở điểm nhìn, con Sông Đà lại có một vẻ đẹp khác nhau. Khát khao tìm đến một cái vẻ đẹp mới hoàn mĩ cùng bản tính của một người nghệ sĩ luôn mong muốn tìm kiếm sự mới lạ độc đáo đã khiến cho dòng sông Đà trở nên sinh động “đóng đinh” vào trong lòng người đọc. Con sông đầy ghềnh thác tung bọt trắng xóa nhìn từ trên xuống ngoằn ngoèo như một cái dây thừng. Rồi có lúc nó lại giống như một thiếu nữ mà có lẽ nói đúng hơn là một tiên nữ giáng trần khiến cho người ta phải mê mẩn: “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.

Cũng giống như rất nhiều những câu văn sau đó nữa, câu văn ngân vang lên như một bài thơ, dòng sông giờ đây trở nên thật hiền lành, nó như một nét vẽ đẹp tô điểm cho bức tranh của núi rừng Tây Bắc. Và vẻ đẹp của Sông Đà không bao giờ nhàm chán. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, hình hài khác nhau: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về…”. Dường như ở con sông Đà không có chỗ cho những cái sơ sài, tất cả đều phải là tuyệt đỉnh.

Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ “gợi cảm”. Và quả thực, vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Trong vẻ đẹp của sông Đà, họ phát hiện ra nó đẹp như một bức tranh đường thi vẽ cảnh “Yêu hoa tam nguyệt há Dương Châu” của Lý Bạch. Vẻ đẹp như trang nghiêm trong mạch cổ Đường thi, vừa lắng đọng về một thời Lí, Trần, Lê vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống đâm chồi nảy lộc: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ thời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra nhưng nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Vừa vượt qua ghềnh thác Sông Đà, ai nghĩ sông Đà lại có một quãng sông lặng tờ đến vậy? Ấy thế mà điều đó lại đang hiện hữu. Đến quãng sông này, sông Đà như môt dòng sông vắt qua thời gian, như một chứng nhân im lặng đang âm thầm đóng góp vẻ đẹp của mình cho đất trời. Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại với thiên nhiên, bờ bãi ven sông. Dường như con người muốn hoà mình cùng cảnh vật để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuấn hút của dòng sông. Bờ sông lúc này như biến thành một bờ cổ tích. Giữa con người và thiên nhiên có một mối chan hoà, giao cảm và đồng điệu tuyệt vời: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương ,chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông, bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cuộc đối thoại tưởng tượng của nhà văn khiến cho thiên nhiên hiện hình với tất cả vẻ hoang sơ của nó, dường như nằm ngoài những biến động, âm thanh của cuộc sống con người. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên nhiên làm chủ vẻ đẹp của chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một “ông khách” thưởng ngoạn cái đẹp. Giữa con người và thiên nhiên có một mối quan hệ hòa hợp, thân thiện. Mọi chuyển động dường như đều cố gắng để không làm ảnh hưởng đến cái dòng chảy tĩnh lặng như thời tiền sử ấy. Qúa khứ và hiện tại đan xen khẳng định vẻ đẹp bất biến theo thời gian.

Ngòi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi câu chữ đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa. Màu sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức tranh. Nhà văn đã khiến cho bức tranh ấy mang một vẻ đẹp hoàn hảo, độc đáo và đầy ấn tượng. Có dòng sông, có nước sông, có cảnh vật hai bên bờ sông nhưng đó phải là con sông như một áng tóc trữ tình, bờ sông như một bờ tiền sử, như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa. Sông Đà đẹp ! đó là điều không thể phủ nhận. Nhưng với Nguyễn Tuân dòng sông mang một vẻ đẹp hoàn mĩ. Nó không chỉ đơn giản là một dòng sông chảy tràn qua núi rừng Tây Bắc mà trở thành một sinh thể sống động, một linh hồn tinh tế và nhạy cảm. Dòng sông Đà hùng vĩ, hiểm trở là kẻ thù, là thách thức, là một kẻ “hằng năm đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người”; vượt qua đoạn thượng nguồn nó đã trở thành một cố nhân. Và khi trước cảnh: “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” sông Đà trở thành “người tình nhân chưa quen biết”… Cứ thế, bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân dẫn dắt người đọc chiếm lĩnh vẻ đẹp của con sông bằng tất cả niềm say mê, tình yêu với sông núi, giang san. Nhà văn đã hát lên những lời ngợi ca say sưa về vẻ đẹp trữ tình tuyệt vời của sông Đà như một khúc ca hùng tráng, ngập tràn yêu thương đối với một vùng thiên nhiên tươi đẹp của đất nước.

Đến với dòng sông của xứ Huế thơ mộng, như một “hướng dẫn viên du lịch” tài năng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc một cái nhìn vô cùng toàn diện nhưng không kém phần hấp dẫn về vẻ đẹp trữ tình của sông Hương. Ở thượng nguồn sông Hương mang vẻ đẹp huyền bí, chẳng phải ngẫu nhiên nhà văn lại gọi dòng sông như một “bản trường ca của rừng già”. Ở nơi khơi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, vừa hùng vĩ, vừa trữ tình như một bản trường ca bất tận của thiên nhiên.

Tại nơi rừng đại ngàn sông Hương “như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” đây là một liên tưởng thú vị và độc đáo. Với hình ảnh so sánh này, nhà văn đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của con sông. Không những thế tác giả còn nhân hóa dòng sông khiến nó hiện lên như một con người có cá tính, tâm hồn “rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Ra khỏi rừng già, sông Hương trở thành một “người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa xứ sở. Nó không chỉ giúp người đọc có thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ, man dại, đầy chất thơ của sông Hương mà còn mang đến một cái nhìn sâu sắc hơn muốn ghi công: sông Hương như một đấng sáng tạo đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Sông Hương chính là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của một không gian văn hóa – văn hóa Huế.

Khi ở ngoại vi thành phố Huế nhà văn đã cảm nhận “sông Hương như một người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được người tình mong đợi đến đánh thức. Từ đây thủy trình của con sông khi nó bắt đầu về xuôi tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức trong một câu chuyện tình yêu lãng mạn, nhuốm màu cổ tích. Dòng sông lúc này mang một dáng vóc mới đầy khát khao và lãng mạn “sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người gái đẹp” khá gian truân và nhiều thử thách khi nó phải vượt qua một loạt chướng ngại vật: điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán… nhưng chính trong quá trình ấy nó lại có cơ hội khoe tất cả vẻ đẹp của mình – vẻ đẹp gợi cảm với những đường cong tuyệt mĩ. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy được ở dòng sông này một vẻ đẹp khác nữa sâu lắng hơn, bí ẩn hơn đó là vẻ trầm mặc như triết lý, như cổ thi của sông Hương đi giữa thiên nhiên. Sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm thành quách của vua chúa thời Nguyễn, con sông hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế như đang nép mình bên giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa phong kín trong lòng.

Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam -đông bắc…, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy… chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

Xem thêm:  Những ngôi sao xa xôi - tác giả, nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý

Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là một nhà văn hoá Huế thực sự, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hóa, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.

Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng:

“Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần thơ mê đắm:

“Con sông đám cưới Huyền Trân

Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn

Hèn chi thơm thảo nỗi buồn

Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ

Con sông nửa thực nửa mơ

Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”

Qua những trang kí tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương hiện ra với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ thuật. Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc.

Cùng là vẻ đẹp trữ tình, cùng được thể hiện qua ngòi bút tài hoa, uyên bác nhưng ở sông Đà, Nguyễn Tuân chủ yếu thể hiện vẻ đẹp hoang dại của thiên nhiên nhằm thỏa mãn thú ham xê dịch, còn sông Hương lại tập trung tái hiện vẻ đẹp văn hóa giàu chất trữ tình của dòng Hương giang. Sông Đà được miêu tả từ góc nhìn địa lý còn sông Hương lại được nhìn trên phương diện văn hóa, lịch sử.Tất cả điều đó đã tạo nên một ấn tượng độc đáo riêng của mỗi tác giả trong tâm hồn bạn đọc; đồng thời mang đến cho họ một cái nhìn mới mẻ, đa dạng về vẻ đẹp của thiên nhiên Tổ quốc.

Qua hai tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”- Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”- Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta có thể cảm nhận thật rõ nét vẻ đẹp trữ tình đầy thơ mộng, hấp dẫn của hai con sông quê hương. Nó không chỉ mang nét đẹp của thiên nhiên mà nó còn mang nhiều giá trị văn hóa, địa lý, lịch sử độc đáo. Qua đó thể hiện vẻ đẹp đa dạng, phong phú của cảnh sắc quê hương, bộc lộ tình yêu thiết tha, gắn bó với đất Việt của các nhà văn.

Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam – mẫu 4

Đề tài những dòng sông luôn trở đi trở lại trong biết bao nhiêu trang thơ trang văn của những người nghệ sĩ. Nếu như con sông Hồng được miêu tả trong tứ thơ Tràng Giang của Huy Cận thì một lần nữa hình ảnh những dòng sông lại được Nguyên Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn để làm nên hai tác phẩm đó là Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông?. Qua đó vẻ đẹp của hai con sông Đà và sông Hương xứ Huế được hiện lên thật đẹp và nên thơ. Có thể nói ngoài vẻ đẹp hung bạo và rậm rộ như bản trường ca của rừng già của hai dòng sông thì chúng ta còn thấy được vẻ đẹp trữ tình đầy thi vị của chúng.

Trước hết những con sông Việt Nam hiện lên qua vẻ đẹp của sông Đà và sông Hương qua vẻ đẹp về hình dáng. Vẻ đẹp ấy được bút pháp và tài nghệ của hai nhà văn tài hoa ấy thể hiện rất tinh tế và làm cho người đọc liên tưởng được những hình ảnh hấp dẫn.

Trước hết là hình dáng sông Đà, với sự tài hoa uyên bác của mình nhà văn Nguyễn Tuân đã mang đến trước mắt ta những vẻ đẹp vô cùng đẹp của con sông chỉ chảy riêng một hướng đó. Chính vẻ đẹp trữ tình của nó đã làm đẹp hơn và lấn át đi những vẻ đẹp hung bạo kia. Có thể nói vẻ đẹp hung bạo của nó khiến cho người ta khiếp sợ bao nhiêu thì vẻ đẹp trữ tình này lại khiến cho người đọc yêu nó , say cái đẹp của nó bấy nhiêu.

Sông Đà từ trên cao nhìn xuống nó mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ Tây Bắc. Nhìn từ trên cao ấy sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình… đốt nương xuân”. Phải chăng đó chính là mái tóc của người thiếu nữ Tây Bắc đẹp như làn nước vậy. Đặc biệt từ trên cao xuyên qua những đám mây ấy nhìn xuống vẻ đẹp ấy thật sự giống như mái tóc mượt mà của người con gái xứ Hoa Ban ấy. Không những thế mái tóc ấy còn hiện lên đẹp hơn khi “ Đầu tóc chân tóc ẩn hiện trên mây trời Tây Bắc”. hình ảnh mang đến cho ta một sự hấp dân và nên thơ lạ thường con sông hung bạo với những trận bày thạch đá ấy, những thác nước dữ tợn ấy mà giờ đây lại hiền hòa như mái tóc của người con gái vậy. Thế rồi tác giả quan sát kĩ nhìn dòng sông cũng giống cả một dây thừng ngoằn nghèo nữa. Đó chính là vẻ đẹp thướt tha kiều diễm của sông Đà.

Không những thế sông Đà còn như một người cố nhân lâu ngày gặp lại chốc hiền hòa rồi lại bất ngờ cáu kỉnh lên đấy thôi. Tác giả vẽ lên những hình ảnh của người cố nhân ấy, nó mang vẻ đẹp như “ vui như nắng giòn tan sau kì mưa rầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể thấy với bút pháp tài hoa của mình Nguyên Tuân đã mang đến cho người đọc một người cố nhân đẹp.

Sông Đà còn trữ tình khi từ lòng sông nhìn sang hai bên bờ. Nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp ấy đã mang đến cho ta những hình ảnh con sông Đà thật hoang sơ cổ kính. Nhìn “ bờ sông hoang sơ như một bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm thuở xưa. Không những thế mà bớ sông còn hiện lên yên ắng lặng lẽ như tờ. Dường như từ thời nhà Lý nhà Trần cũng yên lặng đến thế mà thôi. Nó còn hiện lên với vẻ đẹp tươi tắn của những lá nương ngô mới nhú đầu mùa, cỏ quanh đồi đang ra những nõn búp mới. qua đây ta thấy sông Đà hiện lên thật hoang sơ cổ kính, cái vẻ đẹp ấy có từ thời rất xa xưa đến nay vẫn còn nguyên.

Đến con sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng mang đến cho chúng ta một nét đẹp của nó không kém phần sông Đà. Sông Hương xứ Huế cũng có những nét đẹp hung bạo nhưng nhà thơ không nói đên nó quá nhiều mà tập trung vào vẻ đẹp trữ tình của nó. Trước khi về đến thành phố thì dòng sông Hương cũng đã là một bản trường ca của rừng già, nó đi qua những bài đỗ quyên đỏ rực.

Trước hết vẻ đẹp ấy giống như một cô gái Di- gan phong khoáng và man dại, nó dịu dàng đằm thắm hơn bao giờ hết. Nó không còn là bản trường ca của rừng già nữa mà nó mang vẻ đẹp của sụ hiền lành đáng yêu. Không những thế nó còn mang vẻ đẹp của người mẹ phù sa nơi đây. Sông mang về những phù sa màu mỡ để mang đến cho những cánh động Châu Hóa kia

Tiếp theo vẻ đẹp của dòng sông Hương còn được thể hiện khi nó vào ngoại vi thành phố. Nhìn sông Hương “ như người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại”. Sông Hương cũng giông sông Đà mang một nét đẹp của người con gái. Thế nhưng ở đây sông Hương mang không đẹp như mái tóc người con gái mà đẹp bởi những đường cong quyến rũ. Để vào được đến thành phố sông Hương phải trải qua không biết bao nhiêu đoạn gấp khúc quanh co qua những đồi thiên Mụ… Và chính những đường gấp khúc ấy nó đã tạo nên những đường cong đẹp đẽ cho song Hương.

Vẻ đẹp thư hai của cả hai con sông đó chính là màu sắc. Những sắc nước ấy đã mang lại những điều tuyệt đẹp cho sông Việt Nam.

Với sông Đà thì sắc nước thay đổi theo mùa. Mùa xuân sắc nước sông Đầ xanh màu xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như mặt của một người bầm đi vì rượu bữa” hay là tức giận ai điều gì. Sông Đà chưa bao giờ có màu đen như Pháp đã lếu láo đặt tên nó trên bản đồ.

Còn sắc nước sông Hương biến đổi theo ngày sớm xanh trưa vàng chiều tím. Đó là những màu sắc đi liền với Huế. Chính vị thế mà ngay cả màu của sông cũng mang hồn Huế.

Qua đây ta thấy cả hai nhà văn đều mang đến cho chúng ta những vẻ đẹp của hai con sông ấy. Qua những câu văn đầy tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân ta thấy được một vẻ đẹp vô cùng trữ tình của con sông Đà Tây Bắc, và cũng như thế chúng ta cũng biết thêm những nét đẹp của con sông Hương qua bút pháp miêu tả tài tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tóm lại vẻ đẹp của những con sông ấy hay chính là những vẻ đẹp của những con sông Việt Nam.

Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam – mẫu 5

Trên khắp mọi miền của Tổ Quốc thân yêu, nơi đâu cũng có những cảnh đẹp là niềm tự hào của cả dân tộc. Có những dòng sông thơ mộng, trữ tình đã bao trái tim thương thương nhớ nhớ. Vẻ thơ mộng, trữ tình của dòng sông Việt Nam được thể hiện vô cùng đẹp đẽ qua hao tùy bút bút Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường).

Hai dòng sông, chảy từ hai miền Tổ quốc khác nhau nhưng đều mang trong mình vẻ thơ mộng, trữ tình, ở đó con người được sống và làm mát tâm hồn bởi vẻ đẹp say đắm lòng người. Tuy nhiên, nhìn từ những góc độ khác nhau của tác giả, mỗi dòng sông lại đẹp một vẻ thơ mộng, trữ tình riêng.

Trong thiên tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hương giang hiện lên đẹp như một kiệt tác không tỳ bết của tạo hóa. Dòng sông ôm ấp Huế mộng mơ, lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như “một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng”; lúc lại phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Sông nhẹ nhàng chảy, khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù sa”; khi thì biến ảo thần kỳ “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Khi thì vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh v.v…với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó.

Trong cảm nhận của người nghệ sĩ, sông Hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Đó là hình ảnh so sánh đầy nghệ thuật để miêu tả sông Hương khi chảy về thành phố. Dưới ngòi bút với lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa, sông Hương không hiện lên không chỉ đẹp bằng ngôn ngữ văn chương mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” trong câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Đi theo dòng chảy của dòng sông ta sẽ thấy nó bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ” rồi “trôi giữa hai dãy đồi sững sững như thành quách”.Sông hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.

Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả sông Hương như đang thong thả phác họa một bức tranh – bức tranh hoàn mỹ về Hương giang huyền thoại, dòng sông thơ mộng trữ tình ngay trong tên gọi của mình. Sông Hương ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử, lặng lẽ điểm tô cho vẻ đẹp của xứ Huế mộng mơ. Nhưng ẩn trong vẻ dịu dàng, thơ mộng ấy là sức sống mãnh liệt, hoang dại, đắm say, như ‘một bản trường ca của rừng già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn’. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội: ‘mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoắn như cơn lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn’, rồi lại trở về vẻ ‘dịu dàng, đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng’. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một ‘cô gái di gan, phóng khoáng và man dại’, bởi rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Trong lòng Hương giang, không chỉ có vẻ đẹp nhẹ nhàng, mà còn đan xen cả vẻ đẹp của sự cố kính lâu đời, kì dị huyền bí và mang ý nghĩa của chứng nhân lịch sử, hàng ngàn năm. Con sông thơ mộng trữ tình ấy hóa ra cũng chính là minh chứng cho những năm tháng đấu tranh của dân tộc Việt Nam.

Huế mộng mơ có sông Hương êm đềm chảy, Tây Bắc xa xôi cũng có sông Đà cuồn cuộn nhưng lặng lẽ ẩn giấu vẻ trữ tình. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên với hai nét đẹp tưởng chừng như đối lập nhưng lại hòa mình trong cùng một sinh thể. Đó là hai nét tính cách của dòng sông, lúc hoang dại, hung bạo, khi thơ mộng trữ tình. Sự hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác mà còn ở cảnh đá bờ sông.

Đặc điểm nổi bật nhất ở sông Đà là hùng vĩ, hung bạo và dữ dằn. Ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng ngàn cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn lấy mạng những người lái đò qua quãng đó. Những câu văn với nhịp điệu nhanh dồn dập đã tái hiện diện mạo gớm ghiếc hung dũ như những tên lưu manh, côn đồ của sông Đà. Thế nhưng, tiềm tàng trong vẻ hung bạo đó là nét đẹp rất đỗi nên thơ và trữ tình. Sông Đà mang trong lòng những huyền bí lịch sử từ thuở khai thiên lập địa của cha ông,thuở vạn vật đều có linh hồn. “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân.”Mỗi mùa trôi đi, sông Đà lại khoác lên mình màu áo mới “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích…”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”…

Những câu văn thấm đẫm chất thơ nhẹ nhàng tuôn chảy trong thiên tùy bút, mang theo tình cảm tha thiết của Nguyễn Tuân, ngợi ca vẻ đẹp dòng sông. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như nhìn một “cố nhân”.”bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà” đẹp như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở Lý Trần Lê, vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống nảy lộc đâm chồi : “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Xem thêm:  Soạn bài Nhân vật giao tiếp ngắn nhất

Cảnh vật ven sông, bờ bãi ven sông đẹp đến nỗi khiến con người như muốn hòa vào cùng để thỏa sức chiêm ngưỡng vẻ đẹp của dòng sông. Trong vẻ trữ tình thơ mộng ấy, Nguyễn Tuân buông ngòi bút, kể về lịch sử gắn bó giữa sông và người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà. Trong mạch cảm xúc ấy, tác giả còn đưa ra những ước mơ dự tính về tương lai với nguồn thủy điện tạo ra từ sức mạnh dòng sông.

Khép lại hai thiên tùy bút tiêu biều của thời đại, cùng trải qua những mạch nguồn cảm xúc khác nhau của hai cây bút nổi tiếng – những cái tên đã trở thành huyền thoại của nền văn học, người đọc đã thấy được vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng sông Việt Nam qua sông Hương và sông Đà. Hai tác giả, hai tác phẩm, hai phong cách khác nhau nhưng cùng chung ở đó tình yêu tha thiết với quê hương, xứ sở, với những dòng sông của Tổ quốc thân yêu. Để rồi từ đó, bằng những biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân đã tái hiện vẻ đẹp tuyeejet vời của dòng sông đất nước, để lại ấn tượng sâu sắc và khơi gợi niềm tự hào mãnh liệt trong trái tim độc giả.

Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam – mẫu 6

Việt Nam đẹp với hình ảnh những dòng sông xanh mát, chảy xuống tâm hồn con người những hình ảnh sinh động hấp dẫn nhẹ nhàng, nó mang một vẻ đẹp thanh tao thơ mộng. Qua hai tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường chúng ta có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam mơ mộng và trữ tình đi sâu vào tâm hồn của mỗi con người. Hình ảnh dòng sông Việt Nam được hai tác giả miêu tả thật chi tiết và sinh động trong hai tác phẩm. Điểm chung mà hai tác giả này thể hiện đó là đều miêu tả vẻ đẹp của dòng sông thơ mộng, ở đó con người được sống và làm mát tâm hồn bởi vẻ đẹp say đắm lòng người. Vẻ đẹp của dòng sông quê hương được nhìn từ nhiều góc độ, đó là cách quan sát mà hai nhà văn đã sử dụng để nói về vẻ đẹp của chúng.

Đối với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì vẻ đẹp dòng sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như “một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng”; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Có khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù sa”; có khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh v.v…với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy. Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông Hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông hương bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sững sững như thành quách”. Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiên ngưỡng đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.Sông hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu

Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử. Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế. Sức sống mãnh liệt, hoang dại, dịu dàng, đắm say, như ‘một bản trường ca của rừng già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn’. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội: ‘mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoắn như cơn lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn’, nhưng cũng có lúc lại ‘dịu dàng, đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng’. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một ‘cô gái di gan, phóng khoáng và man dại’, bởi rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Dòng sông hương không chỉ thể hiện vẻ đẹp nhẹ nhàng, mà đây còn là vẻ đẹp của sự cố kính lâu đời, nó là những vẻ đẹp kì dị huyền bí mà còn là chứng nhân lịch sử, hàng ngàn năm, nó là minh chứng cho những năm tháng đấu tranh của dân tộc Việt Nam, những điều đó đã tạo nên một vẻ đẹp lịch sử cho dòng sông Hương.

Nếu như sông Hương được miêu tả với những vẻ đẹp huyền bí, cổ kính và nhẹ nhàng thì dòng sông Đà lại được Nguyễn Tuân miêu tả với hai nét đẹp tưởng chừng như đối lập nhưng lại hòa mình trong cùng một sinh thể, đó là hai nét tính cách của dòng sông, lúc hoang dại, hung bạo nhưng cũng không kém phần thơ mộng trữ tình. Sự hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác mà còn ở cảnh đá bờ sông. Đâu chỉ hùng vĩ, Sông Đà còn vô cùng hung bạo, dữ dằn. Ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng ngàn cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn lấy mạng những người lái đò qua đây. Với những điệp từ, câu văn như dậy sóng, dậy gió. Diện mạo của sông Đà thật gớm ghiếc hung dữ chằng khác nào tên lưu manh, côn đò, giang hồ. Không chỉ mang vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo mà con sông Đà còn mang những nét đẹp trữ tình. Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu tả vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông mang trong lòng những huyền sử thuở khai thiên lập địa của cha ông. “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân.”, “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích…”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”…

Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như một “cố nhân”. Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở Lý Trần Lê, vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống nảy lộc đâm chồi : “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tíchtuổi xưa”. Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hoà vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà. Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.

Như vậy, Có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam đã được khái quát hết trong hai con sông tiêu biểu trên và đã được tác giả khắc họa, so sánh với những vẻ đẹp của sự trù phú, của những vẻ đẹp linh thiêng, dòng sông xanh mát chảy trong tâm hồn của người con đất Việt, những hình ảnh đó đều sinh động, nhẹ nhàng. Nó gợi lại cho người đọc một cảm giác gần gũi hơn với thiên nhiên.

Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam – mẫu 7

Từ xa xưa đến nay thiên nhiên vốn được biết đến là một trong những người bạn vô cùng thân thiết của thi sĩ. Hình ảnh những dòng sông, ngọn núi hữu tình đi vào thơ ca bỗng trở nên gần gũi đáng yêu biết nhường nào. Trong đó hình ảnh hai dòng sông đã đi vào văn học Việt Nam với vẻ đẹp vô cùng trữ tình thơ mộng đó là dòng sông Đà mạnh mẽ, man dại trong Tùy bút sông Đà của Nguyễn Tuân hay vẻ đẹp lãng mạn dịu dàng của sông Hương trong Ai đã đặt tên của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Có thể nói đây được xem như hai tác phẩm vô cùng thành công của nền văn học Việt Nam khi nói về vẻ đẹp của dòng sông. Hai dòng sông dưới hai cái nhìn, hai cách cảm nhận hoàn toàn khác nhau nhưng tựu chung lại nó mang đến cho người đọc cảm nhận vô cùng đẹp đẽ. Nếu như sông Đà ở phần thượng nguồn hung dữ, hạ lưu man dại thì sông Hương lại từ đầu tới cuối mang trong mình một vẻ gì đó e ấp dịu dàng như hình ảnh người con gái xứ Huế thơ mộng. Có thể nói hai tác phẩm chính là hai bức tranh thiên nhiên vô cùng hoàn hảo, hùng vĩ về cảnh thiên nhiên trên mảnh đất hình chữ S này.

Trong chuyến khám phá tìm chất lạ của mình trên dẻo cao Tây Bắc, nhà văn Nguyễn Tuân đã vô cùng may mắn khi bắt gặp vẻ đẹp của dòng Đà giang. Thế rồi ông say sưa đi khám phá hết vẻ đẹp man dại của nó, cuốn theo từng cảm nhận vô cùng phong phú và thích thú. Con sông ấy trong trang viết của ông mang đậm chất thơ và lắng sâu những cảm xúc trữ tình. Mở đầu ông viết “Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình…”Sông Đà là linh hồn của đất trời vùng Tây Bắc. Phép so sánh sông Đà như một áng tóc trữ tình không chỉ đặc tả vẻ đẹp của sông mà còn gợi ra chiều dài, hình dáng , dòng chảy của nó. Đến đây ta không thấy hình ảnh của con sông hung dữ nữa mà thay vào đó nó mềm mại, uốn lượn và duyên dáng như mái tóc của thiếu nữ tuổi đôi mươi xuân thì. Mái tóc đó bồng bềnh như chảy mãi vào trong vô tận. Không chỉ nhìn sông Đà ở một khía cạnh, Nguyễn Tuân đã đi sâu vào khám phá vẻ đẹp của Đà giang ở mọi khía cạnh mọi góc độ để rồi ở bất cứ phương diện nào nhà văn cũng thấy những nét đẹp độc đáo của nó. Khi thì xuyên qua cảnh vật, khi thì bay tạt ngang, khi thì từ trên xuống…. Sông Đà bỗng trở nên sinh động có hồn có sắc hơn. Sắc nước sông Đà còn thay đổi theo mùa. Có khi thì xanh trong suốt, khi đỏ đậm đặc khi lại rực sáng đến diễm lệ… Những hình ảnh gây ấn tượng mạnh đến giác quan tác động mạnh mẽ đến cảm nhận của con người.

Càng ngắm nhìn càng khám phá mới càng thấy thú vị không thôi. Hình ảnh con người gặp sông Đà như cảm nhận gặp lại cố nhân xưa. Mỗi dòng mỗi chữ như chứa chan tình cảm yêu mến không thôi với dòng sông.Gặp lại sông Đà nhà thơ không khỏi ngỡ ngàng bổ vẻ đẹp tiềm ẩn của nó. Nó khiến thi nhân trở nên say sưa, mê hoặc.

Không chỉ nói đến dòng chảy của sông Đà mà cảnh vật không gian hai bên bờ sông cũng vô cùng nên thơ. Nó giống như một chứng nhân lịch sử đã chứng kiến biết bao nhiêu thăng trầm biến cố của cả dân tộc. Thế nhưng vẻ đẹp của dòng sông ngàn đời vẫn vậy, dòng chảy từ quá khứ đến hiện tại và tiếp nối đến mãi tận tương lai. Bằng ngòi bút tài hoa của mình kết hợp với những biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, điều khiển noogn từ đầy điêu luyện Nguyễn Tuân đã tạo nên một bức tranh sông Đà vô cùng kì vĩ và nên thơ. Những dòng tuyệt bút của ông sẽ mãi mãi là kho tàng để con cháu khám phá.

Không giống vẻ tiềm ẩn, mạnh mẽ của sông Đà. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khám phả vẻ đẹp vô cùng dịu dàng của sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sông. Dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang đậm hồn cốt, nền nã, dịu dàng, e ấp của người con gái xứ Huế. Vẻ đẹp đó cứ len lỏi, miên man rồi thấm vào hồn người làm trỗi dậy cả một tình yêu với văn hóa xứ sở.

Dưới con mắt ưu ái của nhà thơ, dòng Hương Giang đã được miêu tả vô cùng có hồn. Mang một vẻ đẹp dịu dàng, sang trọng và đằm thắm. Giữa núi rừng hùng vĩ của Tường sơn thì dòng Hương giang được ví như một bản trường ca của rừng già. Cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên. Có thể nói lúc này sông Hương có vẻ gì đó rất giống với vẻ đẹp dữ dằn của sông Đà dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân. Để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương nơi thượng nguồn nhà văn Hoàng phủ Ngọc Tường đã có một trường so sánh thật táo bạo nó giống như một cô gái Di gan đầy phóng khoáng và man dại. Sông Hương bỗng trở nên vô cùng có hồn, tình yêu rừng già đã chế ngự bản năng con gái tiềm ẩn trong nó. Chính vì thế khi bắt nguồn vào trong thành phố nó đã trở mình trở nên vô cùng mềm mại, mộng mơ và thâm trầm cổ kính.

Sông Hương được ví như một người con gái đẹp ngủ mơ màng được đánh thức để hòa mình cùng Huế. Đoạn văn miêu tả sông Hương trước khi vào thành phố được miêu tả vô cùng kĩ càng và chi tiết. Đến chân đồi Thiên Mụ dòng Hương giang cùng với tiếng chuông chùa và sự uy nghiêm của lăng tẩm đã khiến nó trở thành một vẻ đẹp văn hóa đặc sắc mang đậm hồn cốt của xứ Huế mộng mơ. Nếu như Nguyễn Tuân tạo nên một dòng sông lịch sử, Hoàng Cầm với sông Đuống nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì thì Hoàng phủ Ngọc Tường đã tạo nên cả một dòng sông văn hóa.Vẻ đẹp của dòng sông Hương gắn liền với truyền thống văn hóa của người xứ Huế, với tiếng chuông chùa Thiên Mụ, của những đêm ca Huế ngọt ngào và những lăng tẩm uy nghi của vua chúa thời xưa.

Có thể nói dù là sông Đà hung dữ hay sông Hương dịu dàng truyền thống thì cũng không thể phủ nhận vẻ đẹp bao la của thiên nhiên Việt Nam. Nó như những bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên đất nước mà chứa đựng bên trong nó cả một giá trị văn hóa dân tộc sâu đậm. Qua hai tùy bút trên ta phần nào cảm nhận được vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của hai con sông. Nhưng đồng thời nó cũng thể hiện tình yêu đất nước quê hương thiết tha của nhà văn.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Văn mẫu