Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan | Myphamthucuc.vn

Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan

Theo triết học Mác – Lênin, nhận thức không phải là sự phản ánh thụ động, giản đơn, mà là một quá trình biện chứng.

Như Lênin đã chỉ ra: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.

Con đường biện chứng của quá trình nhận thức gồm hai khâu sau:

I. Khâu thứ nhất: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.

1. Trực quan sinh động còn gọi là nhận thức cảm tính, đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức.

Nó được thể hiện dưới 3 hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng.

* Cảm giác:

– Đây là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người.

Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người. Các giác quan đó là thị giác (mắt), thính giác (tai), vị giác (lưỡi), khứu giác (mũi), xúc giác (tay, chân tiếp xúc với sự vật…).

– Sự vật hoặc hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên cảm giác, như cảm giác về màu đỏ, tiếng nhạc, vị chát, mùi thơm, nước nóng…

Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác quan con người, là sự chuyển hóa năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Ta có thể công thức hóa về cảm giác như sau:

+ Cảm giác A = Hình ảnh A mắt nhìn thấy.

+ Cảm giác B = Âm thanh B tai nghe thấy.

+ Cảm giác C = Vị giác C lưỡi nhận thấy.

+ Cảm giác D = Mùi hương D mũi nhận thấy.

+ Cảm giác E = Nhiệt độ hoặc mức độ thô ráp E của đồ vật khi tay sờ vào cảm thấy.  

* Tri giác:

Đây là hình thức tổng hợp nhiều cảm giác để đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật.

Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện của sự vật, hiện tượng khách quan, cụ thể, cảm tính, được hình thành trên cơ sở liên kết, tổng hợp những cảm giác về sự vật, hiện tượng. So với cảm giác, tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn, nhưng đó vẫn chỉ là sự phản ánh đối với những biểu hiện bên ngoài của sự vật, hiện tượng khách quan, chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan.

Ta có thể công thức hóa về tri giác như sau:

+ Tri giác 1 = Cảm giác A + Cảm giác B + Cảm giác C + Cảm giác D + …

+ Tri giác 2 = Cảm giác A’ + Cảm giác B’ + Cảm giác C’ + Cảm giác D’ + …

* Biểu tượng:

– Đây là hình ảnh của sự vật được con người giữ lại trong trí nhớ.

Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật, hiện tượng khách quan vốn đã được phản ánh bởi cảm giác và tri giác; nó là hình thức phản ánh cao nhất và phức lạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính, đồng thời nó cũng chính là bước quá độ từ giai đoạn nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính. Đặc điểm của biểu tượng là có khả năng tái hiện những hình ảnh mang tính chất biểu trưng về sự vật, hiện tượng khách quan, nó có tính chất liên tưởng về hình thức bên ngoài, bởi thế nó bắt đầu có tính chất của những sự trừu tượng hóa về sự vật, hiện tượng. Đó là tiền đề của những sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận thức lý tính.

Xem thêm:  Triolein không tác dụng với chất nào sau đây? | Myphamthucuc.vn

– Trong biểu tượng chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác đem lại trước đó. Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác động, kích thích  đến trí nhớ con người.

Ta có thể công thức hóa về biểu tượng như sau:

Biểu tượng = Tri giác 1 + Tri giác 2 + Cảm giác X + Cảm giác Y +…

Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng.

Ở sự tưởng tượng đã mang tính chủ động, sáng tạo của con người. Tưởng tượng có vai trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật.

– Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính, song đã bắt đầu mang tính khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng như là hình thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính.

Trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận thức sẽ phát triển lên một giai đoạn cao hơn, đó là nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính còn gọi là tư duy trừu tượng.

2. Tư duy trừu tượng là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính.

– Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người sẽ rất hạn chế. Bởi vì con người không thể chỉ với cảm giác, tri giác mà hiểu được những cái như độc lập, tự do, hạnh phúc, tốc độ ánh sáng, hình thái kinh tế – xã hội…

Muốn hiểu được những cái phức tạp như vậy cần phải có sức mạnh của tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan.

– Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, được biểu đạt thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy.

Tư duy có tính năng động, sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật, do đó phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.

Muốn tư duy, con người phải sử dụng các phương pháp như so sánh, phân tích và tổng hợp, khái quát hóa và trừu tượng hóa…

– Tư duy trừu tượng, hay nhận thức lý tính, được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy lý:

* Khái niệm:

+ Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật, hiện tượng. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng hay một lớp các sự vật, hiện tượng. Nó là cơ sở hình thành nên những phán đoán trong quá trình con người tư duy về sự vật, hiện tượng khách quan.

+ Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học.

Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là những phương tiện để con người tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau.

+ Khái niệm có tính chất khách quan bởi chũng phản ánh những mối liên hệ, những thuộc tính khách quan của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Xem thêm:  Vì sao các nước đông nam á tiến hành công nghiệp hóa nhưng kinh tế phát triển chưa vững chắc | Myphamthucuc.vn

Vì vậy, khi vận dụng khái niệm, ta phải chú ý đến tính khách quan của nó. Nếu áp dụng khái niệm một cách chủ quan, tùy tiện sẽ rơi vào chiết trung và ngụy biện.

+ Nội hàm của khái niệm không phải là bất biến mà luôn vận động, phát triển. Bởi vì hiện thực khách quan luôn vận động và phát triển nên khái niệm phản ánh hiện thực đó cũng phải vận động, phát triển theo, liên hệ chuyển hóa lẫn nhau, linh hoạt, năng động.

Do đó, ta phải chú ý đến tính biện chứng, sự mềm dẻo của các khái niệm khi vận dụng chúng. Phải mài sắc, gọt giũa các khái niệm, phải bổ sung những nội dung mới cho các khái niệm đã có, thay thế các khái niệm cũ bằng khái niệm mới để phản ánh hiện thực mới, phù hợp với thực tiễn mới.

* Phán đoán:

+ Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng được hình thành thông qua việc liên kết các khái niệm với nhau theo phương thức khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.
+ Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số đơn giản những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.

+ Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất định.

* Suy lý:

+ Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng được hình thành trên cơ sở liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật, hiện tượng. Điều kiện để có bất cứ một suy lý nào cũng phải là trên cơ sở những tri thức đã có dưới hình thức là những phán đoán, đồng thời tuân theo những quy tắc logic của các loại hình suy luận, đó là suy luận quy nạp (đi từ những cái riêng đến cái chung) và suy luận diễn dịch (đi từ cái chung đến mỗi cái riêng, cái cụ thể).

Ví dụ: Ta có 2 phán đoán làm tiền đề: “Giấy rất dễ cháy” và “Sách làm từ dấy”. Từ 2 phán đoán này, ta đi đến phán đoán mới: “Sách rất dễ cháy”.

+ Nếu như phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm, thì suy lý là sự liên hệ giữa các phán đoán. Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng, thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết một cách gián tiếp.

Có thể nói, toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy lý. Nhờ có suy lý, con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về hiện thực khách quan.

+ Tuy nhiên, để phản ánh đúng hiện thực khách quan, quá trình suy lý phải xuất phát từ những tiền đề đúng và phải tuân theo những quy tắc logic. Do đó, nếu ta có những tiền đề đúng và ta vận dụng một cách chính xác những quy luật của tư duy đối với những tiền đề ấy thì kết quả phù hợp với hiện thực.

3. Sự thống nhất biện chứng giữa trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) và tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính).

– Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn khác nhau về chất, có đặc điểm và vai trò khác nhau trong việc nhận thức sự vật khách quan.

Xem thêm:  Mở bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Top 3 bài mẫu) | Myphamthucuc.vn

Trực quan sinh động là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động sự vật. Còn tư duy trừu tượng là phản ánh gián tiếp, mang tính trừu tượng khái quát.

Trực quan sinh động mang lại những hình ảnh bề ngoài, chưa sâu sắc về sự vật. Còn tư duy trừu tượng phản ánh được những mối liên hệ bên trong, bản chất, phổ biến, tất yếu của sự vật. Do đó, tư duy trừu tượng phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.

– Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ, tác động lẫn nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tách rời nhau.

Chúng cùng phản ánh thế giới vật chất, có cùng một cơ sở sinh lý duy nhất là hệ thần kinh của con người và điều cùng chịu sự chi phối của thực tiễn lịch sử – xã hội.

– Trực quan sinh động là cơ sở của tư duy trừu tượng. Không có trực quan sinh động thì không có tư duy trừu tượng. Trái lại, trực quan sinh động mà không có tư duy trừu tượng thì không thể nắm bắt được bản chất và quy luật của sự vật.

Vì vậy, cần phải phát triển trực quan sinh động lên tư duy trừu tượng; tư duy trừu tượng sẽ giúp trực quan sinh động trở nên chính xác. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong quá trình nhận thức.

– Một hình thức đặc biệt của nhận thức là trực giác.

Trực giác là năng lực nắm bắt trực tiếp chân lý không cần lập luận lô-gic trước.

Trực giác có những tính chất như bỗng nhiên, bất ngờ, tính trực tiếp và tính không ý thức được. Tuy nhiên, tính bỗng nhiên, bất ngờ của trực giác không có nghĩa nó không dựa gì trên tri thức trước đó mà nó dựa trên những kinh nghiệm, những hiểu biết được tích lũy từ trước.

Trực giác là tri thức trực tiếp song có liên hệ với tri thức gián tiếp. Trực giác được môi giới bởi toàn bộ thực tiễn và nhận thức có trước của con người, bởi kinh nghiệm của quá khứ.

Tính không ý thức được của trực giác không có nghĩa nó đối lập với ý thức, với những quy luật hoạt động của lô-gic. Trực giác là kết quả hoạt động trước đó của ý thức. Trực giác là kết quả của sự dồn nén trí tuệ và tri thức dẫn đến sự “bùng nổ” bằng nhiều thao tác tư duy phát triển ở trình độ khác nhau.

Trực giác là sản phẩm của tài năng và sự say mê, sự kiên trì lao động khoa học một cách nghiêm túc.

II. Khâu thứ hai: Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.

– Nhận thức đến trình độ tư duy trừu tượng rồi thi ta phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra. Chỉ có qua thực tiễn ta mới có thể xác định được nhận thức đó là đúng đắn hay sai lầm.

Mục đích của nhận thức là để định hướng cho hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động cải tạo thế giới. Đến lượt mình, hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.

– Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một chu trình biện chứng của nó. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn, một chu trình nhận thức mới lại bắt đầu và cứ thế mãi mãi.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Học tập