Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ năm 2021


Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ năm 2021

Bài văn Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ gồm dàn ý chi tiết, 2 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 8.

Đề bài: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là nhũng người đáng thương. ” (Nam Cao – Lão Hạc). Hãy chứng minh nhận xét này qua các nhân vật trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.

Bài văn mẫu 1

   Có những tác phẩm đọc xong , ta quên ngay, nhưng cũng cỏ những tác phẩm đọc xong, ta bồi hồi xao xuyến như vừa chia biệt một người thân, vừa mất mát một tài sản vô giá, vừa hận lại vừa muốn khóc!! Đó là tâm trạng tôi khi đọc xong ” Lão Hạc” của Nam Cao. Lão Hạc đã chết, và bao nhiêu lão Hạc đã chết ? Tôi nào biết, nhưng tôi mãi nhớ Nam Cao và Lão Hạc của Nam Cao!

   Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao với tác phẩm “Lão Hạc? của ông đã đưa ra nhiều ý kiến nhìn nhận về lão Hạc để rồi cuối cùng khéo léo đưa ra quan điếm vê cách nhìn nhận đánh giá con người, đồng thời đó cũng là quan đìểm sáng tạo của ông. “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở…”. Bằng ngòi bút linh hoạt xuất sắc, cả tác phẩm “Lão Hạc” của ông đâ toát lên quan điểm đó một cách thầm kín mà sâu xa.

   Ở bản thân lão Hạc, cái hình thức bên ngoài khá mâu thuẫn với bản chất bên trong của lão. Chính vì vậy, để đạt được một hình ảnh lão Hạc có sức thuyết phục lớn như ngày nay chắc chắn Nam Cao phải có sự đồng cảm sâu sắc với quần chúng lao khổ.

   Mỗi nhân vật trong tác phẩm đều nhìn nhận lão Hạc với một quan điểm riêng. Vợ ông giáo nhìn nhận lão Hạc chỉ từ một hướng. Khỉ ông giáo nói chuyện về lão Hạc, thị gạt phắt đi “Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ”.

   Vợ ông giáo hiểu một cách nông cạn về lão Hạc quá! Thị đâu biết rằng, lão để dành tiền lại là để khỏi liên lụy đến hàng xóm sau này khi làm ma cho lão. Bởi lão biết rằng, những người láng giềng cũng nghèo như lão mà thôi. Lão là một con người sống biết lo xa, sống hôm nay mà đã nghĩ ngày mai. Vậy mà vợ ông giáo đã hiểu lão Hạc một cách lầm lẫn, ông giáo rât buồn, nhưng ông không trách vợ “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi “. Rất cụ thể, Nam Cao đưa ra dẫn chứng: “Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu?” Đúng vậy, đau chân còn có lúc đỡ, lúc khỏi, chứ cái nghèo đói nó cứ bám riết lấy con người ta. Và ắt hẳn vợ ông giáo “chằng còn nghĩ gì đến ai được nữa; người ta xuất phát vốn là một người tốt – vợ ông giáo cũng vậy nhưng “cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”. Thế đấy, một con người như thế thì làm sao hiểu nổi người khác, nhất là một người phức tạp như lão Hạc.

   Cũng như lão Hạc và vợ chồng ông giáo, Binh Tư xuất phát cũng là một người nông dân. Nhưng không chịu nổỉ cuộc sống lương thiện để rồi suốt đời nghèo khổ, Binh Tư đã quay mặt với cái thiện. Từ lâu, Binh Tư đả “vốn không ưa lão Hạc bởi lão lương thiện quá”. Khi nhìn nhận về lão Hạc, Nam Cao cũng đã để cho một con người Binh Tư suy nghĩ về lão: “Lão làm bộ đấyỊ Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó”. Qua câu nói đầy ẩn ý của Binh Tư, ta tưởng chừng như Binh Tư lại chính là người hiểu lão Hạc. Nhưng trước cái chết của lão Hạc, ta mới thấy Binh Tư đã hiểu về lão Hạc một cách rất sai lệch. Binh Tư vốn là một tên dùng bả chó để ăn trộm cho nên phải chăng hắn nghĩ rằng người ta dùng bả chó chỉ để làm cái việc xấu xa giống hắn. Thế đấy, vẫn với “một cái chân đau”, Bỉnh Tư cũng đã nhìn nhận con người chỉ qua hình thức bên ngoài.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt năm 2021

   Xuyên suốt câu chuyện lả cả một quá trình tìm hiểu lão Hạc của ông giáo. Kết lại câu chuyện cũng là những suy nghĩ của ông giáo về lão Hạc nói riêng, và cuộc đời bần cùng hóa của người nông dân nói chung.

   Ông giáo, nhân vật “tôi” chính là người kể chuyện có những nét rất gần gũi với Nam Cao. Tuy “tôi” không hoàn toàn đồng nhất với Nam Cao nhưng đã phần nào mang hình mẫu của tác giả. Bản thân ông giáo cũng phải có cả một quá trình khám phá để nhận biết lão Hạc. Lúc đầu, ông cho lão Hạc là một con người lẩm cẩm, nói đi nói lại mỗi chuyện con chó và “trong lòng tôi rất dửng dưng”. Con chó mà lão thường nhắc đến với một tình cảm hiếm có thì ông giáo cho rằng: “Lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu so với tôi quý năm quyển sách của tôi”, về sau qua câu chuyện lão Hạc kể, ông giáo cũng đã hiểu thêm phần nào lão Hạc: “Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muốn bán con chó Vàng của lão”. Thế rồi dần dần, sau khi Lão Hạc bán con chó, ông giáo đã hiểu lão Hạc nhiều hơn. Nhìn bộ mặt “cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước” của lão Hạc, ông giáo đã “muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc”. Ồng giáo đã có sự đồng cảm, xót xa sâu sắc với lão Hạc và “tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước nữa”. Tuy ông giáo mới chỉ dừng lại ờ mức hiểu và thông cảm cho lão Hạc nhưng cũng đã mất đi một thời gian tìm hiểu. Khi thêm một cuộc đối thoại nữa với lão Hạc thì ông giáo đã có một bước nhận thức sâu hơn về lão Hạc, nể phục lão Hạc, nhưng cũng sau cái lần gửi hết tiền và mảnh vườn cho ông giáo, lão Hạc “chỉ ăn khoai”, rồi dần dần lão chế tạo được món gì, ăn món nấy”. Ông giáo muốn giúp đỡ lão Hạc nhưng mà sự giúp đỡ đều vô ích bởi “Lão từ chối tất cả những gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch. Và lão cứ xa tôi dần dần”. Đúng vào lúc đó thì cái tin thì thầm của Binh Tư: “Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão… Lão định cho nó xơi một bữa, nếu trúng lão với tôi uống rượu” đủ khiến ông giáo cũng phải lầm tưởng: “Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư?. Và ông đã phải thốt lên răng: “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”…

   Nhưng ngay sau đó, trước cái chết của lão Hạc, quan điểm của ông giáo đã khác hẳn: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Tại sao lão Hạc lại phải chọn cái chết tàn khốc như vậy — một cái chết sáng tỏ nhân cách cao thượng, lão đã chọn một cái chết cũng vật vã và thương đau như cuộc đời lão, “chằng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có hai người hiểu “Nhưng nói ra làm gì nữa. Vậy thì cuộc đời này vẫn chẳng đáng buồn làm sao. Bởi sao những ngưởi như lão Hạc không được sống hạnh phúc. Tuổi lão Hạc lẽ ra giờ đây phải được quây quần quanh con cháu hưởng thụ phần cuối của cuộc đời. Vậy mà… lão Hạc ơi, cùng với các nhân vật trong truyện, bây giờ người đọc mới thực sự hiểu nổi lão. Con người lão phức tạp quá! Nhìn hình thức bên ngoài, ta không thể hiểu bản chất bên trong của lão rằng: lão đang nghĩ gì, lão sẽ làm ai? Cũng đã có những người hiểu về lão Hạc một cách nông cạn như thế nhưng đều bởi vì họ có “một cái chân đau. Đây cũng chính là nét đặc sắc trong tác phẩm của Nam Cao. Khác với chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, chị đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn và ai nhìn vào chị cũng thấy đẹp; mỗi nhân vật trong “Lão Hạc? nhìn nhận lão với ý kiến riêng của mình và không phải ý kiến nào cũng tốt đẹp. Nhưng dường như trước cái chết của lão Hạc, mọi người đều đã vỡ lẽ ra, bởi vì “Hình như tấm lòng của Nam Cao muốn viết về con người, cho con người sâu hơn, rộng hơn cái anh đã viết ra.” (Kim Lân). Ống quan niệm mỗi con người đều có một góc cạnh, và quả thật trong cuộc sống, con người có những góc cạnh như thế. Cuối cùng, lão Hạc cũng đã chết – chết “vinh” – chết như lão đã từng sống.

Xem thêm:  Tóm tắt bài Bài học đường đời đầu tiên ngắn nhất

   Những người nông dân trong trang viết của Nam Cao cũng rất đa dạng, tốt có xấu có. Có những người sống vì người khác không màng danh lợi cho riêng mình như ông giáo. Nhưng cũng có những người vì khổ quá nên “chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa”, sống ích kỉ, sống cho riêng mình như vợ ông giáo. Và có cả những người giữa cảnh tranh tối tranh sáng của sã hội đương thời đã phải từ bỏ cái gốc người nông dân, quay mặt với cái thiện như Binh Tư.

   “Cái chết dữ dội như con chó dại ấy là cái chết của con người nặng yêu thương, trọng nghĩa tình. Nó khép lại thiên truyện nhưng không đè nặng tim tôi như cái chết Chí Phèo…” Cô giáo Hoàng Thị Phương đã nói thế! Nhưng người viết bài này lại khóc cho Lão Hạc của Nam Cao, muốn làm văn tế lão Hạc và thương tiếc, xót xa cho bao nhiêu người cha Việt Nam mãi mãi!

   Thế đấy, cuộc sống xã hội này phức tạp lắm thay. Và để sống giữa một xã hội như thế, ta không thể không “cố mà tìm hiểu những người ở quanh ta”. Trải qua thời gian nhưng cùng với tác phẩm “Lão Hạc” của mình, quan điểm của Nam Cao đã trở thành bất hủ, và hình tượng Lão Hạc vẫn còn mãi trong văn học Việt Nam. Tôi ước gì lão Hạc đã được đi cấp cứu, trở về ngôi vườn, ăn cháo của ông bà giáo và đón trai mình trở về nhà!

Bài văn mẫu 2

   Cuộc sống của chúng ta muôn màu muôn vẻ, nào đâu chỉ có trắng và đen mà còn có rất nhiều màu sắc khác nhau. Những màu sắc đó khiến cho cuộc sống vừa phong phú, đa dạng nhưng đồng thời cũng khiến nó trở nên phức tạp, khó nắm bắt đặc biệt là đối với mỗi con người. Bởi vậy mà Nam Cao đã từng đúc kết lại trong tác phẩm Lão Hạc của mình bằng một câu văn thấm đẫm chất triết lí: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi … toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương”.

   Lão Hạc là một trong những truyện ngắn thành công nhất của nhà văn Nam Cao khi viết về đề tài người nông dân. Các tác phẩm của ông giàu chất triết lí và thường được đặt vào những lời nói, câu thoại của nhân vật. Lời nhận định trên chính là một dẫn chứng điển hình. Câu nói đó được ông giáo – người kể chuyện, người bạn hàng xóm của lão Hạc nói ra sau khi lão Hạc gửi gắm tiền bạc, vườn tược và từ chối sự giúp đỡ của ông giáo sống cuộc đời khổ sở. Đối với lão Hạc, mỗi nhân vật trong tác phẩm này đều có những nhận xét và đánh giá riêng. Để người đọc từ đó có cái nhìn toàn diện và sâu sắc nhất về nhân vật.

   Trước hết là nhân vật Binh Tư. Binh Tư vốn không được người ta ưa, vì làm nghề ăn trộm chó. Phải chăng trước khi làm cái nghề đó, Binh Tư cũng là người nông dân lương thiện và bị đẩy vào bước đường cùng phải lấy nghề đó mà mưu sinh, sống qua ngày. Khi Binh Tư thấy lão Hạc sang xin bả chó của mình, ngay lập tức anh ta đã nghĩ rằng: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu: lão vừa xin tôi một ít bả chó” . Nhận xét của Binh Tư đã khiến cho ông giáo bị lạc hưởng, và tưởng rằng một con người lương thiện nhường ấy cũng đi đến bước đường tha hóa. Nhưng khi ông giáo và ngay cả Binh Tư khi chứng kiến cái chết đột ngột, dữ dội của lão Hạc thì họ đã hiểu cả, đã hiểu hết phẩm chất đẹp đẽ của lão Hạc. Cái nhìn của Binh Tư cũng đã thay đổi, không còn là cái nhìn của người “cùng hội cùng thuyền” kinh thường sự tha hóa của lão Hạc, mà là cái nhìn thương cảm, xót xa cho số phận lão.

   Bên cạnh đó lão Hạc còn được soi chiếu dưới con mắt của mụ vợ ông giáo. Vợ ông giáo cũng là một người nông dân nghèo khổ, bị dồn tới bước đường cùng. Khi nghe được những lời tâm tình, mong mỏi giúp đỡ lão Hạc của chồng bà gạt phắt ngay đi: “Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ? Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói…”. Nhìn bề ngoài có vẻ lời nói của bà vợ ông giáo là tuyệt tình, không có tình nghĩa, không giúp đỡ người khác. Nhưng ở một góc nhìn khác, ta lại thấu hiểu và cảm thông cho mụ. Thiên tính là một phụ nữ, tất yếu sẽ phải chăm sóc, vun vén cho gia đình, bởi vậy khi con của mụ vẫn còn đói, cuộc sống gia đình vẫn còn khổ cực bà không còn thể suy nghĩ cho người khác. Tấm lòng bao dung bị cái đói, cái nghèo che khuất mất, đúng như ông giáo đã nói: “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất” . Cũng bởi vậy ta không thể trách hoàn toàn người vợ của ông giáo là vô tâm, ích kỉ, không thấu hiểu cho những suy nghĩ của lão Hạc. Mà hơn nữa lão Hạc lại là người có đời sống nội tâm phong phú, phức tạp nên việc mụ vợ ông giáo không hiểu hết con người lão là hoàn toàn dể hiểu.

Xem thêm:  Kể về một lần em mắc lỗi (bỏ học, nói dối, không làm bài…) năm 2021

   Nhưng để có thể làm nổi bật toàn bộ vẻ đẹp nhân cách của lão Hạc, Nam Cao đã cho người đọc cảm nhận qua cái nhìn của ông giáo. Ông giáo là người bạn, luôn bên cạnh đồng hành cùng lão Hạc, phải chẳng ông giáo là người thấu hiểu lão nhất. Lớp lang câu chuyện dần dần hé mở giúp bạn đọc hiểu rõ toàn bộ câu chuyện.

   Ban đầu ông giáo cho lão Hạc chỉ là một ông già lẩm cẩm, đối với một con chó lại lưu luyến quá mức. Những lần lão Hạc thông báo với ông giáo sẽ bán con chó, mặt ông vờ như là chú tâm, nhưng thực tế “lòng tôi rất dửng dửng” vì đã nghe câu ấy quá nhiều lần, bởi chẳng bao giờ lão Hạc sẽ bán đi cậu Vàng. Và phũ phàng hơn ông giáo còn cho rằng: “Và lại, có bán thật nữ thì sao? Làm quái gì một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế”. Và lão quý con vàng chắc gì đã “thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi” . Nhưng để rồi sau đó nghe những lời bộc bạch, tâm tình của lão Hạc thì ông giáo đã hiểu, thì ra cậu Vàng không đơn thuần chỉ là một con chó, mà nó còn là kỉ vật do con trai lão để lại, là người bạn để lão giải khuây khi buồn, khi nhớ con.

   Hành trình tìm hiểu bản chất con người lão Hạc tiêp tục khi ông giáo nhận được thông báo lão Hạc đã bán cậu Vàng. Lão cố làm ra vẻ vui mừng, nhưng kì thực lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, và khi không thể kìm nén cảm xúc nữa, lão bưng mặt khóc như một đứa trẻ. Ông giáo thực sự thấu hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh của lão. Từng bước một ông giáo ngày càng hiểu hơn con người đáng kính trọng này. Nghe những lời tâm sự của lão Hạc, giao lại mảnh vườn nhờ ông giáo giữ hộ cho con, đưa tiền cho ông giáo để làm ma chay không phiền lụy hàng xóm. Ông mới cảm nhận được hết tình mẫu tử thiêng liêng và lòng tự trong sâu sắc trong con người lão Hạc. Có lẽ làm bạn với nhau lâu năm, nhưng phải đến giờ phút này ông giáo mới hiểu được con người lão Hạc.

   Phần cuối truyện có những bước ngoặt lớn trong quá trình tìm hiểu lão Hạc. Khi ông giáo hay tin lão Hạc xin bả chó, ông giáo đau đớn, bởi đến bước đường cùng “lão cũng có thể làm liều như ai hết” và “cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn” . Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn, dữ dội của lão Hạc, ông giáo đã hiểu ra mọi chuyện: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Cái chết của lão Hạc đau đớn, vật vã, dữ dội đã giúp ông giáo cũng như toàn thể người đọc hiểu rõ phẩm chất trong sạch, nhân cách cao đẹp của lão Hạc

   Quả thực, cuộc đời này vốn lắm đa đoan, phức tạp. Để thấu hiểu và cảm thông cho mỗi số phận, hoàn cảnh cần có cái nhìn linh hoạt, toàn diện. Lời triết lí của Nam Cao tuy ngắn gọn nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc cho muôn đời, muôn thế hệ sau trong cách hành xử, đánh giá mọi sự việc, mọi vấn đề trong cuộc sống.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Văn mẫu