Cảm nhận về bài thơ Đồng chí ngắn gọn nhất | Myphamthucuc.vn

Hướng dẫn lập dàn ý Cảm nhận về bài thơ Đồng chí ngắn gọn, chi tiết, hay nhất. Với các bài dàn ý và văn mẫu được tổng hợp và biên soạn dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 

     Cảm nhận bài thơ Đồng chí của Chính Hữu để thấy vẻ đẹp của tình đồng đội mộc mạc, giản dị mà thâm thúy Một trong những người lính cách mệnh trong những tháng ngày kháng chiến gian lao. Sát đó, cảm nhận bài thơ Đồng chí cũng giúp người đọc thấy được tình đồng đội là thứ tình cảm thiêng liêng và cao đẹp của những người dân lính, giúp họ vượt qua khó khăn thiếu thốn để hoàn thành mọi nhiệm vụ. Trong nội dung nội dung bài viết sau đây, hãy cùng Top lời giải cảm nhận bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.

1. Phân tích đề

– Yêu cầu đề bài: Nêu cảm nhận về các chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm để thể hiện cảm xúc của bản thân về tác phẩm.

– Đối tượng làm bài: bài thơ Đồng chí

2. Các luận điểm chính cần triển khai

Luận điểm 1: Cảm nhận sự gắn kết trọn vẹn giữa những người đồng chí

Luận điểm 2: Cảm nhận vẻ đẹp tình đồng chí

Luận điểm 3: Biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí, cảm nhận hình ảnh đầu súng trăng treo

Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Đồng chí

Mở bài :

+ Sơ nét về nhà thơ Chính Hữu cùng bài thơ Đồng chí.

+ Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, từ đó đề cập đến giá trị của tác phẩm.

Thân bài :

+ Cơ sở của tình đồng chí và hoàn cảnh xuất thân của người lính.

+ Những biểu hiện cảm động của tình cảm đồng chí đồng đội.

+ Những người dân đồng chí đồng đội luôn cùng nhau ý nguyện chiến đấu.

Kết bài :

+ Nếu giá trị nội dung, thẩm mỹ cũng như ý nghĩa của tác phẩm.

+ Tóm tắt các ý chính trong nội dung bài viết cảm nhận bài thơ Đồng chí.

Cảm nhận về bài thơ Đồng chí – Bài mẫu 1

     Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố. Mỗi lần biến động là mỗi lần dân ta sít gần lại nhau hơn, cùng nhau vì mục đích cao cả chung. Đó là những năm tháng hào hùng, khí thế của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu tranh chống Pháp, chống Mĩ vĩ đại. Giữa những đau thương chiến đấu, cuộc chiến còn góp phần đắp xây nên mối quan hệ giữa những người lính với nhau. Cho nên không có gì khó hiểu khi vào năm 1948, tác phẩm ” Đồng Chí” của nhà thơ Chính Hữu lại tạo nên một sự bùng nổ, lan truyền rộng khắp trong giới quân đội. Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong nhữg năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ.

     Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã khắc hoạ thành công cái chất hiền lành, tình nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng như tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính nông dân áo vải. Từ moi miền quê trên dải đất quê hương, những con người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ Quốc, cùng họp lại với nhau, trở thành một con người mới: Người Lính. Họ là những người nông dân từ những vùng quê lam lũ đói nghèo, quanh năm chỉ biết đến con trâu mảnh ruộng, các anh giã từ quê hương lên đừơng chiến đấu:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

     Không hẹn mà nên, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất nước. Từ những người “xa lạ” rồi thành “đôi tri kỉ”, về sau thành “đồng chí”.Câu thơ biến hoá 7,8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại.Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì:”Anh với tôi đôi người xa lạ-Tự phương trời chẳng hen quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

     Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, súng bên súng, chia nhau gian khổ, nguy hiểm, đêm đắp chung một chiếc chăn chịu rét. Đắp chung chăn trỏ thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng ruột thịt. Những cái chung đã biến những con người xa lại thành đôi tri kỉ. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc để làm nên tình bạn, tình đồng chí.

     Tấm lòng của họ đối với đất nước thật càm động khi giặc đến các anh đã gửi lại người bạn thân mảnh ruộng chưa cày , mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung lay để ra đi kháng chiến . Bình thường vậy thôi , nhưng nếu không có một tình yêu đất nước sâu nặng không thể có một thái độ ra đi như vậy.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay “

     Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: yêu nuớc Tình yêu đất nước, ý thức dân tộc là máu thịt, là cuộc đời họ, bởi vậy, nông dân hay trí thức chỉ mới nghe tiếng đau thương của quê hương, họ sẽ bỏ lại tất cả, cả ruộng nương, xóm làng. Chỉ đến khi ở nơi kháng chiến người lính nông dân áo vải lại trở mình, lòng lại bận tâm lo lắng về mảnh ruộng chưa cày, với căn nhà bị gió lung lay. Nỗi nhớ của các anh là thế: cụ thể nhưng cảm động biết bao. Người lính luôn hiểu rằng nơi quê nhà người mẹ già, ngừơi vợ trẻ cùng đám con thơ đang trông ngóng anh trở về:

“Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.”

     Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật, nhưng thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời ông cha gắn với quê hương ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mình.

Cảm nhận về bài thơ Đồng chí – Bài mẫu 2

Cảm nhận về bài thơ Đồng chí ngắn gọn nhất (ảnh 2)

     Văn chương là một bức tranh muôn màu, nó hiện ra dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ được lấy chất liệu từ hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những thứ xa xôi, hào nhoáng để mãn nhãn người đọc mà tiếp cận với người đọc bằng những thứ tình cảm chân thành, những chủ đề gần gũi. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ không chỉ thể hiện tinh thần bất khuất của dân tộc mà nó còn phả một luồng gió mới vào văn chương đương thời. Hòa mình vào không khí ấy, Chính Hữu với “ Đồng chí” như một hiện tượng xuất sắc về đề tài người lính. Cảm nhận bài thơ “ Đồng chí”, Chính Hữu đưa bạn đọc vào thế giới hiện thực nơi núi rừng biên giới tưởng xa lạ  nhưng thấm đẫm tình đồng đội bằng thứ văn chương giản dị, mộc mạc.

     Không thể phủ nhận rằng, để có được hai chữ “Độc lập Tự do” dân tộc ta đã đánh đổi bằng máu và nước mắt, bằng thanh xuân tươi trẻ của cả một thế hệ qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Từ hiện thực đầy đau thương, mất mát hình ảnh người lính đi vào thơ ca thời thì cách mạng như một tượng đài vĩnh cửu, một nguồn cảm hứng dạt dào, vô tận không bao giờ vơi cạn và góp phần làm nên tên tuổi của nhiều thế hệ các nhà văn, nhà thơ. Và Chính Hữu là một trong số đó.

     Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông thường viết về đề tài chiến tranh và người lính bằng thứ ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng. “Đồng chí” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Chính Hữu, được trích trong tập thơ “Đầu súng trăng treo” viết vào đầu mùa xuân năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Bài thơ ca ngợi tình đồng chí cao cả và thiêng liêng, gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của những người nông dân mặc áo lính giữa thời khói lửa.

Xem thêm:  Tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó | Myphamthucuc.vn

     Với giọng thơ như một cách kể chuyện thủ thỉ, tâm tình cùng Ngòi bút tài hoa, ngôn ngữ giản dị, đầy tính tự nhiên Chính hữu đã đi về với xuất thân để hình thành nên tình đồng chí:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

     Anh và tôi đều có xuất thân từ những người nông dân chân chất, mộc mạc. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn chất liệu dân gian  để nói về quê hương của mình cùng với cấu trúc song hành, đối xứng , Chính Hữu đã thổi hồn vào để cho lời thơ đầy chân thành, chất thơ mộc mạc. Phải chăng sự đồng cảm và hiểu nhau là nhân tố, là bệ phóng cho tình đồng chí?.

 “Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.

     Cùng hoàn cảnh, cùng chung lý tưởng lớn, các anh đã bước chân vào con đường đầy gian nan nhưng cũng rất đỗi hào hùng. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ là một cái duyên để cho các anh gặp gỡ, để cho những trái tim nồng nàn yêu nước có dịp hội tụ, đưa các anh từ những người nông dân chân lấm tay bùn xa lạ, chẳng hề thân quen thành những người bạn tri kỷ:

 “Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”

     Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Những người nông dân mặc áo lính ấy chiến đấu vì chính mình và sự nghiệp chung của đất nước đã xóa nhòa mọi khoảng cách về không gian, thời gian, địa vị câu thơ: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi thế đứng trong đêm hành quân. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều, không chỉ gần nhau về không gian địa lý mà còn là chung suy nghĩ, chung lý tưởng cách mạng. Tố Hữu cũng đã nói đến tình cảm người lính trong tập thơ Việt Bắc

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

     Câu thơ 7, 8  rút ngắn với hai từ “đồng chí” như nghẹn lại như cái choàng vai tin cậy, như một dáng đứng vững chãi thu về một tâm điểm của sức mạnh niềm tin rắn rỏi .Xúc động xen lẫn tự hào khi nói về tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lý tưởng chiến đấu  những người nông dân nồng nàn lòng yêu nước, thiết tha mong hai chữ độc lập tự do cho dân tộc. Chính Hữu đã thật tài tình khi sử dụng các từ ngữ như bên, sát, chung, thành đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỷ, tình đồng chí.

     Những người lính ra đi có cùng chung xuất thân, hoàn cảnh. Vì vậy nỗi nhớ, động lực của các anh nơi tiền tuyến mưa bom bão đạn đều có chung hai chữ quê hương, từ đó làm thắm đượm thêm tình đồng chí:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính……

     Nếu hình ảnh người lính trí thức trong “ Tây tiến” của Quang Dũng ra đi từ mảnh đất ngàn năm văn hiến sẽ nhớ về dáng Kiều thơm thì người lính trong thơ Chính Hữu lại nhớ về giếng nước, mái đình, gốc đa. Những chất liệu, hình ảnh dân gian “Cây đa cũ, bến đò xưa… …”, được Chính Hữu sử dụng một cách đầy tinh tế, điêu luyện, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, đong đầy nỗi nhớ quê hương của chàng trai mặc áo lính. Hai nỗi nhớ ở cả tiền tuyến và hậu phương, tình yêu quê hương và sự đồng cảm nơi xuất thân đã làm thắm đượm thêm hai chữ “ Đồng chí” , là nhân tố góp phần làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, thậm chí là đánh cược cả sinh mạng nơi tuyền tuyến mưa bom bão đạn.

     Tình đồng chí, đồng đội trong thời kì kháng chiến chống Pháp như một nguồn cảm hứng dồi dào để các nhà thơ, nhà văn chắp bút. Và trong gian khổ, vẻ đẹp của tình người ấy tỏa ra một nguồn sáng hơn bao giờ hết: 

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

     Giờ đây, tác giả đã đưa vào câu thơ hàng loạt những chi tiết đầy tính chân thực. Đó là áo rách, quần vá, chân không giày. Câu thơ hiện lên bao sự gian khổ, thiếu thốn về vật chất của những người lính trong cuộc kháng chiến giành độc lập cho dân tộc. Không những thế, nó còn là căn bệnh sốt rét rừng kinh niên mà người lính phải chịu đựng. Trong bài thơ “ Tây Tiến”, Quang Dũng cũng từng nói đến căn bệnh này

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

     Nhưng trong cùng khổ, với việc sử dụng thế đối xứng tôi – anh, Chính Hữu đã gợi lên sự đồng cảm , chia sẻ của người lính sát cánh bên nhau:

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá chân không giày..

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

     Những câu thơ tưởng chừng như là kể, là tả nhưng đến câu thơ “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nó không còn là kể, là tả nữa. Nó có gì đó một chút ngượng ngùng, vụng về trong tình cảm chân thật của người lính Cái hay của tứ thơ là sự lặp lại của những cặp đối xứng so sánh thật hồn nhiên “Tôi – anh”, “Quần – áo”, “Cười buốt giá – Chân không giày”. Hình ảnh người lính- đồng chí được nâng dần lên từ sự gian khó thiếu thốn bao nhiêu thì vẻ đẹp tâm hồn càng được nâng lên bấy nhiêu

     Ba câu thơ cuối là một bức tranh đẹp nhất, hoàn hảo nhất về hình ảnh người lính:

               Đêm nay rừng hoang sương muối

               Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

               Đầu súng trăng treo

     Trong bức tranh ấy, nổi bật lên trên nền rừng hoang sương muối là sự kết hợp của ba hình ảnh: người lính, khẩu súng và vầng trăng. Nó tạo nên một khung cảnh vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh nơi rừng núi hoang vu, khắc nghiệt của thời tiết khi phải chịu cái rét thấu xương như hàng ngàn mũi dao đâm vào da thịt, khi mà cái chết đang cận kề bên mình người lính vẫn ung dung, bình thản cùng nhau “ chờ giặc tới”. Cách nói của Chính Hữu không chỉ cho ta thấy rõ hơn hoàn cảnh của cuộc chiến mà còn sáng ngời tinh thần chiến đấu của chú bộ đội cụ Hồ. Và trong không gian ấy, nhà thơ đã có một phát hiện rất thi vị:

“Đầu súng trăng treo”.

     Đây có lẽ là câu thơ hay nhất, lan tỏa nhất khi viết về anh bộ đội cụ Hồ của Chính Hữu. Lấy chất liệu từ hiện thực, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời trong một đêm khuya tĩnh mịch. Hai hình ảnh mang đầy tính đối lập. Súng là biểu tượng của cuộc chiến đấu gian khổ, ky sinh nơi hiểm trở; trăng là biểu tượng của một sự yên bình – điều mà những người lính đang mong mỏi hướng tới. “Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh đầy thi vị, trong cuộc chiến gian khổ, thậm chí phải ky sinh cả tính mạng của mình cho nền độc lập của Tổ quốc, họ vẫn bình thản, lạc quan, yêu đời. Họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Dù trong rừng hoang sương muối đêm tối và biết bao hiểm nguy, người lính thời kháng chiến chống Pháp vẫn mở rộng tâm hồn để cảm nhận hình ảnh đẹp đẽ của vầng trăng treo trên đầu mũi súng. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo”  là một hình ảnh đẹp nhất của Chính Hữu về người lính. Nó có thể coi là một sự đột phá thi ca mang nguồn cảm hứng,vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca cách mạng thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp. Dùng hình ảnh ánh trăng để tô đậm cái tư thế bình tĩnh, chủ động “chờ giặc tới”. Mọi khó khăn, gian khổ, không khí căng thẳng của trận chiến đã lùi xa để nhường chỗ cho vẻ đẹp lung lịnh, huyền diệu của ánh trăng nơi rừng núi hoang sơ, hiểm trở.

     Cảm nhận về bài thơ “Đồng chí”, có thể thấy Chính Hữu đã thổi một luồng gió nhẹ nhàng về tình đồng chí, đồng đội trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đầy gian lao. Với sự kết hợp của bút pháp hiện thực và lãng mạn, ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, sử dụng chất liệu dân gian để làm cho những lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc. Hình ảnh người lính cụ Hồ trong lời thơ của Chính Hữu đã sáng ngời vẻ đẹp của một tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Xem thêm:  [CHUẨN NHẤT] Phản ứng đặc trưng của ankan | Myphamthucuc.vn

Cảm nhận về bài thơ Đồng chí – Bài mẫu 3

     Đồng chí là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc.

     Toàn bộ tứ thơ của Đồng chí phát triển xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật tôi và anh. Ở đây, nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình – cũng là những đồng đội thân thiết với mình – để nói lên những hoàn cảnh, biểu hiện những tâm trạng, tình cảm của họ.

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

     Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan. Những con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mạng giữa những người nông dân “tứ xứ” này cũng được Hồng Nguyên thể hiện một cách hồn nhiên trong phần mở đầu bài Nhớ:

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi một, hai

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến…

     Từ “đôi người xa lạ” đến “thành đôi tri kỉ”, từ “chẳng hẹn quen nhau” đến “đêm rét chung chăn”- đó dường như là sự gặp gỡ, gắn bó tình cờ nhưng thực lại rất tự nhiên và tất nhiên bởi những con người này cùng chiến đấu, hi sinh vì một lí tưởng cao cả. Hai câu thơ mà chứa đựng, liên kết được nhiều hình ảnh sinh động:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ

     Chính Hữu đã dùng một từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn tả một tình cảm rất mới. Chữ “tri kỉ” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của mối tri kỉ này là tình đồng chí. Chính vì thế, từ “đồng chí” được tác giả được tác giả tách riêng thành một dòng thơ. Đây là chi tiết nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản lề khép mở, nối kết hai phần của bài thơ.

     Có thể xem dòng thơ hết sức ngắn này là một tiếng gọi tha thiết, trang nghiêm từ đáy lòng những người nông dân mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong một quan hệ mới (Sau chữ “đồng chí” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đó, cần trả nó về hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước Cách mạng thành công – ở thời kì giác ngộ lí tưởng cộng sản, theo Đảng đoàn kết hi sinh giành quyền độc lập tự do; trong những năm đầu kháng chiến gian nan – khi toàn dân đang nhất tề đứng lên theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” – ở những năm tháng, những thời đIểm ấy, nghĩa đồng bào, đồng chí thật thiêng liêng và hết sức được trân trọng (Chữ “đồng chí” chúng ta dùng bây giờ hẳn khác). Tính chất thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người nông dân – vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mạng giải phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì thế, chúng ta thêm hiểu vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng chí mà không lấy một cái tên khác, chẳng hạn “đồng đội”. Quả thật, chữ “đồng chí” hàm nghĩa cao rộng hơn, mà cũng sâu hơn. Nghĩa đồng chí, một mặt, là cơ sở, là nền tảng; mặt khác, cũng là cốt lõi, là bản chất của tình đồng đội. Về cuối cuộc kháng chiến chín năm, khi chứng kiến chủ nghĩa anh hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm, cụ thể thêm tình đồng đội:

Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội

Ta mới hiểu thế nào là đồng đội

Đồng đội ta

Là hớp nước uống chung

Nắm cơm bẻ nửa

Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa

Chia khắp anh em một mẩu tin nhà

Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp

Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết…

(Giá từng thước đất)

     Đó là một bước cụ thể hóa tình đồng chí. Còn lúc này (1948) – ở buổi đầu kháng chiến – cái cần nhấn mạnh là sự tập hợp, là sự cùng chí hướng trong thử thách gian nan. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành một dòng thơ của từ “đồng chí” mang ý nghĩa ấy.

     Vừa dồn tụ cảm xúc ở sáu dòng thơ trước, dòng thơ chỉ một từ này đồng thời đóng vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các nhân vật trữ tình (tôi và anh) từ “đồng chí” còn như khắc ấn một khái niệm mới mẻ mà cả phần sau của bài thơ là sự vỡ lẽ, sự nhận thức nhau rõ hơn để cảm thông, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng chí – ấy là gửi lại ruộng nương, từ biệt giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” giữ gìn độc lập tự do của đất nước. Đồng chí- ấy là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Đồng chí – ấy là sự sẻ chia và động viên nhau trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

     Tình đồng chí thắm thiết khiến cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ nhất của đời sống. Điều đáng chú ý là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về bạn trước rồi sau dó mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu đến cuối bài Đồng chí, trong cặp nhân vật trữ tình, bao giờ anh cũng xuất hiện trước, cũng đứng trước tôi (Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người xa lạ”. Lần 3: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “qui luật” trên bề mặt ngôn ngữ ấy phải chăng phản ánh một nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỉ trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng cảnh ngộ, cùng nghĩa vụ.

     Nếu đầy đủ thương nhau đã quí. Nhưng càng gian khổ, càng thiếu thốn lại càng thương nhau, ấy mới là điều đáng quí hơn ở những người chiến sĩ cách mạng. Nhịp ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu một chi tiết hết sức cụ thể. Từng chi tiết cô gọn ấy cứ lần lượt khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn tượng rồi để mở ra – mở ra biết mấy tâm tình, xúc cảm ở câu thơ cuối đoạn được trải dài hơn:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

     Dường như đây là cao trào của cảm xúc yêu thương trong người chiến sĩ. Thương nhau vô cùng trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng cứng rắn, nghị lực vô cùng bởi cử chỉ ấy chỉ có khi những người chiến sĩ đã ý thức đầy đủ về hoàn cảnh của đất nước kháng chiến, về nghĩa vụ cao cả của mình. Cử chỉ ấy dường như chứa đựng sự tự ý thức, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và dặn dò nhau. Tình cảm không bồng bột mà đằm sâu.

     Chính quá trình nhận thức rõ về tình đồng chí, chính bước phát triển cao của tình yêu thương lẫn nhau như trên đã dẫn đến đoạn kết thúc độc đáo:

Xem thêm:  Người ta có thể yêu nhau và ghét nhau, nhưng xin đừng hãm hại nhau (ngắn gọn, hay nhất) | Myphamthucuc.vn

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

     Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu – đặc điểm không gian và thời gian: đêm nay- rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.

     Không phải ngẫu nhiên mà sau này Chính Hữu đặt tên cho một tập thơ của mình là Đầu súng trăng treo. Cũng không phải tự nhiên mà trên nhiều bìa sách, nhiều bức họa sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân thường xuất hiện hình ảnh này. Nhà thơ đã sáng tạo được một hình ảnh thật độc đáo, giàu sức khái quát. Đầu súng – thể hiện của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo – hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự kết hợp tự nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn trong sáng,bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. Chúng ta bền gan chiến đấu, gian khổ hi sinh chính vì vầng trăng ấy, vì cuộc sống thanh bình. Hình ảnh và nhịp điệu thơ này lơ lửng, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có gian khổ nhưng cũng có niềm vui, vừa là thực vừa mang tính biểu tượng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mạng đậm đà thật khó phân tích hết bằng lời.

     Nhanh chóng vượt ra khỏi những cảm xúc lạc lõng buổi đầu, đến Đồng chí, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp một bài thơ xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu như trước đó chưa đầy một năm, anh bộ đội kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với “đôi giầy vạn dặm”, chiếc “áo hào hoa” thì giờ đây anh xuất hiện trong Đồng chí với chiếc áo rách vai, chiếc quần có vài mảnh vá, với đôi chân không giày và với tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, đầy mến thương trong gian khổ. Đồng chí cũng thể hiện rõ phong cách thơ độc đáo của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng chi tiết, từng hình ảnh để vừa cụ thể, vừa giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết tự bên trong.

Cảm nhận về bài thơ Đồng chí – Bài mẫu 4

Cảm nhận về bài thơ Đồng chí ngắn gọn nhất (ảnh 3)

     Đồng chí là tiếng gọi thân thương tha thiết, biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng Pháp. Cảm nhận được tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ – chiến sĩ đã xúc động viết bài thơ Đồng chí. Với lời thơ chân chất, tràn đầy tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.

     Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ. Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc “cuốc cày” ở những vùng quê nghèo khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng lời thơ thật xúc động:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

     Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khổ “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Từ “xa lạ” gặp nhau. Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai người xa lạ mà là “đôi người xa lạ”, vì thế ý thơ được nhấn mạnh, mở rộng thêm. “Hai người” cụ thể quá. Đôi người là từng “đôi” một – nhiều người. Trong đơn vị quân đội ấy, ai cũng thế. Hình ảnh những con người chẳng hẹn quen nhau nói lên một sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng khi tham gia kháng chiến, những con người ấy cùng nhau chiến đấu, cùng nhau chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng chí”.

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí”

     Tình cảm ấy thật thân thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang liền mạch nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình, bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ Đồng chí lại được tách ra làm câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy tác giả đã làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ Đồng chí – một tiếng nói thiêng liêng. Đồng chí một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm. Thế là thành đồng chí.

     Tình cảm ấy lại đựơc biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề bên nhau, họ lại kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày”, “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” cả chuyện “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”… Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng: Các anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong họ. Các anh lại cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ lại tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc ướt mồ hôi, cùng chịu với nhau từng cơn ớn lạnh. Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá… dẫu trời có buốt giá thì miệng vẫn cười tươi. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách nắm lấy bàn tay. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất của cải, không phải là những lời hoa mĩ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí là bàn tay nắm lấy bàn tay. Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩ thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng chí:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

     Câu thơ vừa tả cảnh thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính phục kích chờ giặc trong đêm sương muối. Súng hướng mũi lên trời có ánh trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn Vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thật độc đáo gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.

     Bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sự khái quát cao, Chính Hữu đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm cách mạng trong quân đội. Ở đây nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực của cuộc sống thực trong đời thường của người chiến sĩ, không phô trương, không lãng mạn hóa, thi vị hóa, chính những nét thực đó tạo nên sự thành công của tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác và cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong thơ thời kì chống Pháp.

—/—

Như vậy, Top lời giải đã vừa cung cấp những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay Cảm nhận về bài thơ Đồng chí để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn !

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Học tập