Các dạng đề bài Vợ chồng A Phủ


Các dạng đề bài Vợ chồng A Phủ

Tổng hợp các dạng đề văn lớp 12 xoay quanh các tác phẩm đầy đủ các dạng đề đọc hiểu, đề văn phân tích, cảm nhận, nghị luận, … với hướng dẫn chi tiết giúp học sinh ôn tập đạt điểm cao trong các bài thi môn Ngữ văn lớp 12.

1. Dạng đề đọc – hiểu (2-3 điểm)

Câu 1: Đọc các ngữ liệu dưới đây và trả lời các yêu cầu dưới đây:

“Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu con ngựa”

“Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào công việc cả đêm cả ngày”

“Mỗi ngày Mị không nói lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”

“Ngựa vẫn đứng yên gãi chân nhai cỏ, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”

                                                  (Trích trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)

a.Những thủ pháp nghệ thuật nào đã được sử dụng trong những câu văn trên?

* Gợi ý trả lời

– Những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng là: so sánh, điệp từ, vật hóa.

b. Nêu hiệu quả, ý dụng của những thủ pháp nghệ thuật ấy?

* Gợi ý trả lời

Hiệu quả, tác dụng:

– So sánh Mị với con trâu, con ngựa, con rùa để làm nổi bật nỗi khổ về cả thể xác lẫn tinh thần của cô gái miền núi này.

– Điệp từ “khổ, còn, đêm …” nhấn mạnh nội dung diễn đạt đồng thời tạo nhịp điệu cho câu văn.

– Vật hóa (ngược với nhân hóa) nhấn mạnh thêm kiếp người chỉ bằng, thậm chí không bằng kiếp vật.

c. Từ những câu trích trên, anh (chị) hãy viết một đoạn văn quy nạp nói về tình cảm, thái độ của nhà văn với đối tượng miêu tả.

* Gợi ý trả lời

Yêu cầu:

– Hình thức: Đoạn văn phải viết theo phương pháp quy nạp  đoạn văn được trình bày đi từ các ý nhỏ đến ý lớn, từ ý luận cứ cụ thể đến ý kết luận bao trùm  câu chủ đề nằm ở vị trí cuối đoạn.

– Nội dung cần đúc kết: Sự thấu hiểu và cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với nỗi khổ đau bất hạnh của nhân vật Mị trong tác phẩm nói riêng và những người phụ nữ miền núi nói chung. Qua đó, ta thấy Tô Hoài là một nhà văn vừa am hiểu đời sống, vừa có tấm lòng nhân đạo đáng quý.

Câu 2: Theo anh (chị), giọng trần thuật của nhà văn trong đoạn văn sau có gì đặc biệt?

Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tài ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà này đến nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà  nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù đi hái củi, bung ngô,  nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.

Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một cái cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng, Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.

( Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo Dục, 2008, tr.6)

* Gợi ý trả lời

– Giọng trần thuật của tác giả thể hiện ở lối kể chậm với giọng kể trầm lắng đầy cảm thông, yêu mến => giúp người đọc hòa vào dòng ý nghĩ, hòa với tiếng nói bên trong của nhân vật, vừa bóc lột trực tiếp đời sống nội tâm nhân vật vừa tạo được sự đồng cảm.

Câu 3. Hãy phân tích chuỗi hình ảnh so sánh: “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…; Con ngựa, con trâu làm còn có, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày; Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

* Gợi ý trả lời

– Chuỗi hình ảnh so sánh có sự tăng cấp, từ so sánh ngang bằng (Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…) đến so sánh hơn (Con ngựa, con trâu làm còn có, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.); từ sự đè nén, áp bức về thể xác đến sự chèn ép nặng nề về tinh thần khiến Mị trở thành con người bị tê liệt hoàn toàn về ý thức sống (Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.).

– Tác dụng: Nghệ thuật so sánh giúp Mị hiện lên sâu sắc hơn, tưởng như chính Mị là một công cụ lao động sống hoàn toàn không có ý thức về sự sống.

Câu 4. Nêu cảm nhận của anh (chị) về chi tiết “căn buồng Mị ở có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”.

Suy nghĩ ấy cho thấy điều gì trong thái độ sống của Mị ?

* Gợi ý trả lời

– Chi tiết căn buồng Mị ở có một cái cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc:

+ Khắc họa cuộc sống tù túng, tăm tối, quẩn quanh, bế tắc của Mị.

+ Tố cáo sâu sắc tội ác của chế độ xã hội miền núi Tây bắc Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

– Suy nghĩ của Mị chính là cho ta thấy thái độ cam chịu, chấp nhận, buông xuôi theo số phận.

Câu 5: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi đoạn trích trên được viết theo phương thức biểu đạt chính nào?

Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mỵ nhớ lại đời mình. Mỵ tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mị đã cởi trói cho nó, Mỵ liền phải trói thay vào đấy. Mỵ chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mị cũng không thấy sợ…Trong nhà tối bưng, Mỵ rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mỵ tưởng như A Phủ biết có người bước lại… Mỵ rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi, như rắn thở, không biết mê hay tỉnh.Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mỵ cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi đi…” rồi Mỵ nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.

Mị đứng lặng trong bóng tối.

Trời tối lắm. Mị vẫn băng đi. Mỵ đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc.

(Trích Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)

* Gợi ý trả lời

– Đoạn trích sau được viết theo phương thức tự sự.

2. Dạng viết bài văn (4-6 điểm)

Đề 1: Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài.

* Gợi ý trả lời

I. Mở bài

– Giới thiệu chung về tác giả

+ Tô Hoài là nhà văn có lối trần thuật hóm hỉnh

+ Ông có sở trường về loại truyện phong tục và hồi kí.

– Giới thiệu chung về tác phẩm:

+ Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc

+ Tác phẩm là sự phản ánh nỗi khổ của đồng bào Tây Bắc dưới ách thống trị của

thực dân Pháp, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp con người nơi đây.

II. Thân bài

1. Nhân vật Mị

a. Trước khi trở thành con dâu gạt nợ

– Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo

– Mị luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu. Hiếu thảo.

– Chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do

b. Từ khi trở thành con dâu gạt nợ

– Nguyên nhân: món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ Mị.

– Mị phải chịu những đày đọa về thể xác và cả tinh thần.

– Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau

– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

+ Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình,

..) đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ.

+ Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm

…”, với khát khao tự do, thắp sáng căn phòng tối, muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự

tù đày.

+ Khi bị A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến

những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.

– Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng

người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

– Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:

+ Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không

hồn.

+ Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh

của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày

đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.

+ Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ. Mị sợ

cái chết, sợ nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát.

? Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp

đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

2. Nhân vật A Phủ

– Số phận: mồ côi cha mẹ, không còn người thân, lớn lên đi làm thuê, sau đó trở

thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

– Khi trở thành người ở gạt nợ:

+ Nguyên nhân: đánh con quan, thua cuộc trong vụ xử kiện quái gở.

+ A Phủ chịu sự đày đọa về mặt thể chất: phải làm những công việc nặng, nguy

hiểm: “đốt rừng, cày nương, săn bò tót, …”, không có giá trị bằng một con bò, làm

mất bò mà bị trói đứng đến chết.

– Tích cách:

+ Lúc nhỏ mạnh mẽ, gan bướng: khi bị bán xuống cánh đồng thấp lại trốn lên núi

cao

+ Lớn lên là chàng trai khỏe mạnh chăm chỉ, tháo vát, biết làm mọi công việc. Là

người biết bất bình trước bất công (đánh A Sử), khao khát tự do (nén đau để vùng

chạy khi được cắt dây trói).

? Nhận xét: A Phủ được nhìn từ bên ngoài với những lời nói ngắn gọn, hành

động dữ dội mạnh mẽ.

3. Nghệ thuật:

Ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển

điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.

III. Kết luận.

Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau

khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn

thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị.

Đề 2: Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.

* Gợi ý trả lời

I. Mở bài

Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng miền, ông có vốn ngôn ngữ phong phú, lối trần thuật tự nhiên.

Xem thêm:  Soạn bài Chí Phèo - Phần 1: Tác giả Nam Cao ngắn nhất

Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của Tô Hoài, truyện viết về những con người Tây Bắc tiềm tàng sức sống đã vùng lên đấu tranh chống lại bọn thống trị.

Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.

II. Thân bài

1. Mị vốn là cô gái có những phẩm chất tốt đẹp

– Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:

+Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê”

+ Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.

Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.

2. Nạn nhân của những áp bức bất công

– Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …

– Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay …không biết là sương hay nắng”.

Mị sống lầm lì “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.

3. Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị

– Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự do.

– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

+ Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.

+ Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.

+ Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. +Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do

+Tinh thần phản kháng mạnh mẽ: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, nổi loạn muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.

+Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.

  • Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

– Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:

+ Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.

Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.

+ Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ

+Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.

  •  Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

III. Kết bài

  • Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị.
  • Nghệ thuật: ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
  • Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

Đề 3: Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài

* Gợi ý trả lời

I. Mở bài:

  • Giới thiệu tác giả và tác phẩm
  • Giới thiệu sơ lược về Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Tâm trạng của Mị trước đêm xuân.

II. Thân bài:

– Phân tích tâm trạng Mị trong đêm mùa xuân.

+ Trước đêm mùa xuân, do bị đày đọa, áp chế, Mị trở thành một người phụ nữ “vô hồn”, mất hết ý niệm về thời gian lẫn không gian. Kiếp sống của Mị lúc đó chẳng khác nào kiếp sống con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra. Nhưng có thể nói sức sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt.

-> Sức sống trong Mị có thể bị dập tắt vĩnh viễn, nhưng cũng có thể sẽ trỗi dậy khi có điều kiện.

+ Do sự tác động của bối cảnh bên ngoài đối với Mị trong đêm mùa xuân. Mùa xuân năm ấy ở Hồng Ngài đẹp và gợi cảm biết bao

–> Chính không gian rộn rã sắc màu cùng tiếng sáo tha thiết lơ lửng kia đã đánh thức con người Mị ngày xưa. Tiếng sáo vô tình hay cố ý chạm vào nỗi nhớ “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hồi”. “Mị ngồi nhẩm lại bài hát của người đang thổi”…

– Mùa xuân đó đầy sắc màu, rộn rã âm thanh. Điều ấy xa lạ với không gian trong căn phòng bé nhỏ của Mị, nhưng gần gũi với thế giới mà Mị đã từng sống rất hạnh phúc. Chúng gợi cho Mị nhớ lại thời xa xưa. Ngày xưa, Tết Mị uống rượu. Bây giờ, Mị cũng uống rượu. Rồi Mị say.

– Rượu – chất men đánh thức phần đời đã mất của Mị. “Khi uống rượu say, Mị lại được sống về những ngày trước. Ngày trước Mị vui sướng biết bao. Tai Mị vẳng nghe tiếng sáo vọng lại đầu làng. Đấy là tiếng sáo của tình duyên, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Mị không còn là cô con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra nữa. Mị đang uống rượu bên bếp và thổi sáo rồi Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Ra thế, Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ.”

– Sự đối lập giữa hoàn cảnh đêm xuân, giữa thế giới được đánh thức với cuộc sống thực tại: Khi say, Mị nhớ và sống lại với ngày xưa, nhưng thực ra, Mị vẫn đang ở nhà thống lý Pá Tra. Mị vẫn đang sống kiếp đọa đày với A Sử. Sự đối lập giữa một bên là hạnh phúc tuổi trẻ với một bên là kiếp sống trâu ngựa đã khiến Mị suy nghĩ đến việc kết liễu đời mình như ngày mới về làm dâu nhà thống lý. Mị lại ước gì có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Càng nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. Ôi chao, tiếng sáo ấy, tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Mị đang muốn quên đi, Mị không muốn nhớ lại cái ngày trước mà không được. Tiếng sáo ấy lửng lơ, tiếng sáo ấy làm Mọi thiết tha bổi hổi. Mị muốn đi chơi. Mị muốn thoát ra ngoài cái ô cửa ô mờ đục, trăng trắng này!

– Nhưng Mị lại thực hiện một sự giải thoát bằng cách khác. Đó là bỏ nhà đi chơi như những người trẻ trung đang dập dìu ngoài làng. Mị đã ý định giải thoát một cách lặng lẽ mà mãnh liệt: Mị đến góc nhà, tay lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng…Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách… Mị rút thêm cái áo. Mị làm tất cả, thật bình thản và quyết liệt như ngày xưa, khi trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.

– Ý định giải thoát của Mị không thành: Trông thấy Mị, A Sử lấy làm lạ. Nó chỉ biết rằng Mị muốn đi chơi. Thằng chồng ác hơn con hổ ấy không biết trước mặt mình đã là một cô Mị khác, cô Mị của ngày xưa mà hắn đã từng lừa lọc để đánh cắp đem về. Hắn thẳng tay vùi dập tàn nhẫn sự trở về đó: A Sử bước lại, nắm lấy Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống mặt, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa…

III. Kết bài:

– Thành công của nhà văn Tô Hoài là đã khắc hoạ một nhân vật sống chủ yếu bằng tâm trạng, với tâm trạng. Cả đêm mùa xuân, Mị hành động được rất ít, những người đọc vẫn thực sự hấp dẫn với một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy. Không gian, thời gian, giọng kể của tác phẩm theo một tiết tấu của chính tâm trạng ấy. Hẳn Tô Hoài đã đặt cả tấm lòng của mình vào tâm trạng của Mị, để người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi tha thiết, khi nghẹn ngào xót xa.

Đề 4: Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ.

* Gợi ý trả lời

I. Mở bài

Giới thiệu sơ lược về Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

II. Thân bài

Phân tích tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ

– Giới thiệu sơ lược về A Phủ: một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nhà thống lý Pá Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày kia.

– Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ:

+ Cuộc sống đọa đày trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn. Thời gian đọa đày biến cố trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh không khiến Mị quan tâm. Những đêm đầu Mị thổi lửa hơ tay. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước.

+ Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo.

– Thương người cùng cảnh ngộ:

Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy khiến Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Rồi Mị phảng phất nghĩ gần nghĩ xa : Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết thế?

– Tình thương lớn hơn cái chết:

Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Cô cũng sợ nếu mình cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá Tra biết được sẽ tới thay vào đấy và lại phải chết trên cái cọc ấy… Song có lẽ tình thương ở Mị đã lớn hơn cả sự chết. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ.

– Từ cứu người đến cứu mình :

Khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị đứng lặng trong bóng tối. Song, chính ngay lúc ấy, trong lòng người đàn bà khốn khổ kia mọi chuyện diễn ra rất nhanh. Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Vì ở đây thì chết mất.

Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

Xem thêm:  Người bạn ấy sống mãi trong lòng tôi năm 2022

III. Kết luận:

Qua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, chúng ta thấy được cả sức sống tiềm tàng ở một người phụ nữ bị đọa đày vả về thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng như mất đi hết đời sống tâm hồn. Phải yêu thương và có một niềm tin mãnh liệt vào con người nhà văn mới có được cái nhìn nhân đạo như vậy.

Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị rất tự nhiên, hợp lý và chân thực. Không thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật sẽ không hiểu được hành động của nhân vật đó. Hành động cuối cùng của Mị – cởi trói cho A Phủ – có vẻ bất ngờ nhưng lại hợp với quy luật tâm lý con người, quy luật của cuộc sống. Nhà văn không chỉ đem đến cho bạn đọc những nhân vật biết hành động mà quan trọng hơn là vì sao có hành động ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng một nhân vật có sức sống bên trong mãnh liệt đằng sau khuôn mặt vô hồn, vô cảm của Mị. Bởi vậy, có người đã xem đây là “một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam”

Đề 5: Phân tích nhân vật A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.

* Gợi ý trả lời

I. Mở bài: 

  • Đôi nét về tác giả, tác phẩm
  • Giới thiệu nhân vật

II. Thân bài:

* Xuất thân của A Phủ

  • Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ. Trích câu dân làng nói về A Phủ.
  • Là con người không bao giờ lùi bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.

* Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà Thống Lý

  • Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà Thống Lý, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.
  • Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt rừng, cày nương, cuốc mương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt
  • Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.

* Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt:

  • Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”
  • Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ” vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.
  • Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lý. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.

* Đánh giá

  • Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lý thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo, quyết liệt.
  • Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật.
  • Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc: Số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng
  • Người đọc cũng mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ là những con người không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lý thống trong đêm tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lý thống, gặp được ánh sáng của Cách mạng ở cuối đường.

III. Kết bài:

Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.

Đề 6: Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.

* Gợi ý trả lời

I. Mở bài

– Tô Hoài rất nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của con người các vùng miền, tác phẩm của ông hấp dẫn người đọc bởi vốn hiểu biết sâu sắc.

– Tiêu biểu cho phong cách của Tô Hoài là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Đặc biệt, hình tượng nhân vật Mị đã trở thành biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.

II. Thân bài

– Sức sống tiềm tàng là sức sống vốn có của con người nhưng bị hoàn cảnh bên ngoài tác động làm che khuất đi, nhưng luôn thường trực, chờ cơ hội trỗi dậy.

1. Sức sống vốn có của Mị trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra

– Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:

+ Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”

+ Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.

+Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.

2. Sức sống tiềm tàng của Mị bị khuất lấp trong cảnh làm con dâu gạt nợ

– Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …

– Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay …không biết là sương hay nắng”.

– Mị sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.

3. Sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy

– Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự do.

– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

+ Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.

+Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.

+Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do, chấm dứt sự tù đày.

+Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi.

-Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.

+ Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

– Trong đêm mùa đông, khi A Phủ bị trói:

+ Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.

+ Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.

+ Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ

Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.

– Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

III. Kết bài

– Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị.

– Nghệ thuật: ngôn ngữ đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.

– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

Đề 7: Ngày Tết, Mị muốn đi chơi xuân nhưng bị A Sử trói đứng vào cột nhà. Tô Hoài viết tiếp: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói… Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. 

Phân tích đoạn văn trên, nêu rõ cảm nhận của anh (chị) về nhân vật Mị (số phận, sức sống) và về ngòi bút miêu tả tinh tế, sâu sắc của Tô Hoài.

* Gợi ý trả lời

I. Mở bài

Nếu đoạn đời sống trong địa ngục trần gian ở Hồng Ngài là sự giao tranh âm ỉ quyết liệt giữa số phận bi thảm và sức sống tiềm tàng của Mị, thì cảnh Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhà trong bóng tối có thể. xem như là hình ảnh thu nhỏ cô đúc và thấm thía của cuộc giao tranh đó. Chỉ có điều nó lại diễn ra trong tâm trạng chập chờn nửa mê, nửa tỉnh của cô gái, và Tô Hoài, như đã nhập thân vào nhân vật để viết nên một đoạn văn thật tinh tế, sâu sắc: “Trong bóng tối… không bằng con ngựa”.

II. Thân bài

1. Giữa đoạn văn là một câu rất ngắn, chỉ có bốn chữ: Mị vùng bước đi. Trên là âm thanh tiếng sáo, dưới là tiếng chân ngựa. “Mị vùng bước đi” như một cái bản lề khép mở hai thế giới, hai tâm trạng: thế giới của ước mơ với tiếng sáo rập rờn trong đầu và thế giới của hiện thực với tiếng chân ngựa đạp vào vách; tâm trạng của một cô Mị đang mê man chập chờn theo tiếng sáo gọi bạn tình và tâm trạng của một cô Mị đã tỉnh đang “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thật cô đúc mà thấm thía. Kiệm lời mà hàm chứa nhiều ý nghĩa.

Xem thêm:  Phân tích khổ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ năm 2021

2. Tiếng sáo: ước mơ – sức sống của Mị

“Mị vùng bước đi”. Câu văn ngỡ như không đúng mà lại rất đúng, lại tinh tế và sâu sắc. Làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đã bị trói bằng cả một thúng sợi đay? Nhưng Mị đã vùng bước đi như một kẻ mộng du, như không biết mình đang bị trói. Bởi Mị đang sống với ước mơ, bằng ước mơ chứ không sống với hiện thực, bằng hiện thực. Mị đang sống với tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân ngày trước, đang muốn tìm lại tuổi trẻ, tuổi xuân, tình yêu, hạnh phúc của mình. Hơi rượu còn nồng nàn, trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo đưa MỊ đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi…”. Chính cái tiếng sáo ấy đã gọi Mị vùng bước đi về với cuộc sống thật của mình đã bị cướp mất trong cái địa ngục trần gian này. Mới biết sức sống của cô tiềm tàng, mãnh liệt đến nhường nào. Sức sống ấy khiến cô quên đi tất cả hiện thực xung quanh, không thấy, không nghe A Sử nói, không biết cả mình đang bị trói! Chỉ còn biết có tiếng sáo, chỉ còn sống với tiếng sáo, mê man chập chờn trong tiếng sáo. Xây dựng nên cái tâm trạng mê man như một kẻ mộng du đi theo tiếng sáo, Tô Hoài đã nói lên rất rõ và sâu sắc cái sức sống mãnh liệt đang trào dâng trong lòng cô lúc bấy giờ. Và tiếng sáo đã thành một biểu trưng sâu sắc và gợi cảm cho ước mơ và sức sống của Mị.

3. Tiếng chân ngựa: hiện thực – số phận của Mị

“Mị vùng bước đi”. Nhưng tay chân đau không cựa được. Tiếng sáo tắt ngay, ước mơ tan biến, và hiện thực trần trụi, phũ phàng hiện ra: chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Mị đã tỉnh hẳn khi dây trói thít chặt lại, đau nhức, và cay đắng nhận ra số phận của mình không bằng con ngựa. Cái dây trói kia chỉ làm đau thể xác, nhưng cái tiếng chân ngựa này mới thực sự xoáy sâu vào nỗi đau tinh thần của Mị khi nó gợi lên một sự so sánh thật nghiệt ngã, xót xa:* thân phận con người mà không bằng thân trâu ngựa?! Tiếng chân ngựa đã thành một biểu trưng giàu ý nghĩa cho hiện thực và số phận của Mị.

4. Ngòi bút miêu tả tinh tế sâu sắc của Tô Hoài

– Tinh tế trong miêu tả tâm trạng nhân vật ở hai cảnh đối lập nhau: mê man chập chờn theo tiếng sáo như một kẻ mộng du dẫn đến hành động “vùng bước đi”; tỉnh lại và cay đắng xót xa “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” – hai tâm trạng ấy tiếp nối nhau trong sự phát triển biện chứng để hoàn chỉnh chân dung và số phận nhân vật.

– Sâu sắc trong những chi tiết giàu ý nghĩa, đặc biệt là hai biểu trưng “tiếng sáo” và “tiếng chân ngựa” đối lập nhau và đầy ấn tượng.

III. Kết bài

– Đoạn văn ngắn mà bật nổi được bức tranh tối – sáng của nhân vật (số phận và sức sống) một cách sinh động, gợi cảm và có chiều sâu, khiến ta càng hiểu thêm nhân vật, bút pháp Tô Hoài và nhất là tấm lòng đồng cảm yêu thương của nhà văn đối với nhân vật của mình. Đó là một trong những đoạn văn hay nhất, in đậm phong cách Tô Hoài trong truyện ngắn này.

Đề 8: Phân tích giá trị hiện thực truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài

* Gợi ý trả lời

I, MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nội dung yêu cầu của đề bài: Giá trị hiện thực của tác phẩm.

II, THÂN BÀI

1, Giải thích

– Giá trị hiện thực là gì? => Đó là bức tranh đời sống hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm của mình. Đó là bức tranh đời chân thực nhất được người nghệ sĩ cải biến đưa vào trang văn của mình, từ đó phản ánh lên những sự thực ở đời đến người đọc. Mỗi tác phẩm văn học đều có giá trị hiện thực, bởi văn chương không thể xa rời thực tế, cũng như “Nhà văn phải là người thư ký trung thành của thời đại” (Balzac).

– Giới thiệu khái quát về tác phẩm: “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được Tô Hoài viết sau khi 8 tháng ở miền núi Tây Bắc với bộ đội và những người dân tộc nơi đây. Chính vùng đất thiêng liêng ấy đã để lại nhớ thương trong lòng ông, khiến ông phải cầm bút lên viết ngay tác phẩm này như một lời chào trở lại với miền đất thân yêu ấy. Tác phẩm kể về nhân vật Mị, vì món nợ của gia đình mà bị bắt về làm con dâu gạt nợ. Từ đó, cuộc đời khổ đau, bị bóc lột liên tục của Mị bắt đầu. Bên cạnh đó còn vô số những mảnh đời khác như A Phủ, người chị dâu của Mị, bố mẹ Mị… cũng bị như thế.

2, Phân tích chứng minh

a, Chế độ phong kiến miền núi tàn bạo độc ác

– Tất cả đều được thể hiện qua đám cha con thống lí Pá Tra, A Sử và đám tay sai của chúng: bọn chức việc, lí dịch, thống quán… ở Hồng Ngài. Những cảnh ăn vạ và “xử kiện”, cảnh hút thuốc phiện, cảnh hành hạ A Phủ, trói Mị… đều thể hiện rõ điều này.

– Chúng cho người dân vay nặng lãi, dùng cách cúng trình ma để hù dọa người dân, mỗi năm lãi càng thêm nhiều. Điển hình là gia đình Mị. Bố mẹ Mị chỉ vì muốn lấy được nhau mà phải vay nhà thống lí tiền để làm cơm mời cả làng, nếu không sẽ không được đồng ý. Món nợ ấy ngày qua ngày sinh lãi, lãi mẹ đẻ lãi con, đến khi mẹ Mị mất đi, bố Mị già rồi vẫn chưa hết. Mỗi năm nhà Mị đều phải trả tiền lãi là một nương ngô. Chính món nợ ấy cùng trò cúng trình ma khiến gia đình Mị không thể nào trốn được, khiến Mị mất đi tự do, bố Mị mất đi đứa con gái duy nhất. Hạnh phúc phải đánh đổi bằng cả cuộc đời, bằng tự do.

– Vì đánh A Sử – đánh con quan, dẫu cho lí do có chính đáng, ấy nhưng người sai vẫn là A Phủ, phải chịu hình phạt nặng nề và xử kiện một cách oan uổng. A Phủ bị nhà thống lí khiêng mang về, trói và ném giữa nhà không khác gì đối xử với một con vật. Phiên tòa ấy được tiến hành một cách man rợ và khó hiểu. Suốt đêm chỉ nghe thấy tiếng mắng chửi, hình ảnh hút thuốc phiện, cứ xong một đợt thuốc là lại đánh A Phủ. Không được thanh minh, không được lên tiếng giải thích, cứ thế bị quy chụp cho cái mũ tội lỗi, nộp 100 đồng bạc trắng phạt vạ. Nhưng A Phủ nào có tiền, lại phải vay nhà thống lí. Và đó là lần đầu tiên A Phủ thấy nhiều tiền tới vậy, có lẽ cũng là lần cuối cùng được chạm tới tự do.

b, Cuộc sống thống khổ bị bóc lột của người dân miền núi bởi cường quyền và thần quyền

* Nhân vật Mị

– Mị vốn là một cô gái người Mèo có đủ khả năng và điều kiện hưởng một cuộc sống hạnh phúc, có một tương lai tươi sáng. Ấy vậy nhưng không, món nợ truyền đời truyền kiếp của cha mẹ Mị, với những yêu cầu quá quắt của phong tục miền núi khiến Mị mất đi tự do, trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

– Gọi là con dâu, nhưng lại là kiếp con dâu gạt nợ, chẳng khác gì một con ở không công đến suốt đời suốt kiếp cho nhà thống lí, không được ngơi nghỉ. Lúc nào cũng là “những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.” Một cô gái ấy nhưng làm việc không ngơi nghỉ, ngày đêm làm việc, bị vắt kiệt sức lao động. Thậm chí Mị còn nghĩ mình không bằng cả con trâu, con ngựa bởi chúng nó còn có lúc được nghỉ ngơi, chăm sóc cẩn thận.

+ Căn phòng Mị ở chỉ là một căn buồng nhỏ kín mít, duy nhất có một “chiếc cửa sổ một lỗ vuông mờ mờ trăng trắng” chẳng rõ được là đêm hay là ngày.

+ Mị thậm chí còn bị đày đọa về tinh thần. Bản thân Mị và A Sử vốn không có lòng với nhau, vậy mà phải ở với nhau. A Sử đối với Mị chẳng khác gì chủ nhà với con ở: Trong đêm tình mùa xuân, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử không cho. phũ phàng trói Mị lại ở góc cột, quấn tóc Mị vào cột để Mị không nghiêng đầu được. Và, ở nhà này đã từng có người bị trói đứng mà chết rồi. Ngay cả khi A Sử đi chơi về bị thương, Mị ra rừng lấy thuốc bôi cho A Sử, trong lúc mệt quá mà thiếp đi, Mị bị A Sử bị đạp xuống giường. Trong những đêm đông, thấy Mị ngồi thổi lửa hơ tay, A Sử đá Mị ngã…

+ Khổ, bị áp bức, bị bóc lột nhưng Mị không dám bỏ trốn, bởi Mị đã bị chúng nó đem đi cúng trình ma rồi. Mị đi đâu, con ma nhà thống lí sẽ theo tới đó bắt Mị trở lại. Cách duy nhất chỉ có một con đường chính là chết thôi, nhưng Mị không thể chết được. Sự mê tín vào thần quyền đã ràng buộc Mị lại cuộc sống không khác gì địa ngục này, vùng vẫy thế nào cũng không thể thoát ra được.

=> Từ một cô gái trẻ trung, Mị mất dần sức sống, trở thành loài thảo mộc chẳng còn biết rung rinh trước gió, bị ràng buộc. Mị đã bị tha hóa, thay đổi, trở thành nô lệ. Đau khổ quá người ta còn nghĩ đến cái chết, nhưng bản thân Mị đã tê liệt cảm xúc, như một cái xác không hồn không hề còn cảm giác gì nữa.

* Nhân vật A Phủ

– Sau khi thành con ở, A Phủ bị đọa đày về thân xác, làm hết việc này đến việc khác, đều là những việc vô cùng nguy hiểm. Đỉnh điểm hành động độc ác của chúng chính là khi A Phủ làm mất bò, con bò bị hổ tha đi mất, chúng mắng A Phủ là quân ăn cướp, bắt A Phủ tự tay lấy dây trói mình lại, đào hố chôn cọc, chờ khi nào tìm được con bò thì tính tiếp. Bò đã bị ăn mất rồi, làm sao tìm lại được nữa? Sự vô lí của giai cấp thống trị không khỏi khiến ta phẫn nộ vô cùng.

* Nhân vật khác

– Người đàn bà trong gia đình nhà thống lí từng bị trói đứng ở cột rồi chết rũ, người chị dâu của Mị… tất cả những con người ấy dù không được kể ra rõ ràng nhưng ta cũng hiểu được họ đã phải trải qua những đau khổ đến thế nào.

3, Đánh giá

– Qua những mảnh đời đầy bất hạnh ấy, Tô Hoài đã lên án xã hội phong kiến cường quyền thần quyền độc ác đã đàn áp, bóc lột người dân lao động đến cùng cực, không còn đường lui. Tố cáo chế độ bất công, độc ác và ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân, tài sản của mình mà không màng đến tính mạng của người khác.

– Giá trị hiện thực khiến tác phẩm càng thêm sâu sắc, khắc họa rõ nét hơn cuộc đời khổ đau của vô số những mảnh đời nơi vùng núi Tây Bắc kia với bạn đọc.

III, KẾT BÀI

– Khẳng định giá trị vai trò của giá trị hiện thực với tác phẩm và tác giả.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Văn mẫu